Văn học việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX cho đến 1945 thể hiện rõ
Chào mừng bạn đến với pgdgiolinhqt.edu.vn trong bài viết về Van hoc viet nam giai doan dau the ki xx cho den 1945 the hien ro net tinh chúng tôi sẽ chia sẻ kinh nghiệm chuyên sâu của mình cung cấp kiến thức chuyên sâu dành cho bạn.
Với nhiệt huyết yêu nước, thù giặc, những chí sĩ đầu thế kỉ đã thực hiện được “Ba tấc lưỡi mà gươm nhà súng – Một ngòi lông vừa trắng vừa chiêng”. Và từ tận bên kia trời Âu, sang sảng lời tuyên dương “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đáng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu con người trong vòng nô lộ tôn sùng” mà Nguyễn Ái Quốc gửi đến vị lãnh tụ yêu nước trong truyện ngắn Những trò lố hay Varen Phan Bội Châu đăng trên một tờ báo ngay giữa Pa-ri. Không phải chỉ riêng Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, mà vô số con Lạc cháu Hồng, mặc dù trong cảnh ngộ “Đã khách không nhà trong bốn bể – Lại người có tội giữa năm châu” (Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác) vẫn không hề nhụt ý chí. Họ chỉ coi việc ở tù như một dịp nghỉ ngơi khi đã “chạy mỏi chân” trong cuộc bôn ba đầy gian nan tìm đường cứu nước. Họ tự nhận thức tư cách “những kẻ vá trời” của mình với một giọng điệu đầy khí thế lạc quan, quật cường:
Lừng lẫy cho lở núi non
Xách búa đánh tan năm, bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
(Đập đá ở Cân Lôn – Phan Châu Trinh)
Nhưng không phải ai cũng có khả năng và điều kiện trực tiếp chiến đấu, hi sinh cho sự nghiệp độc lập. Nhiều người, mặc dù bất lực không cầm được vũ khí, không đáng vỗ mặt kẻ thù bằng những bài thơ sôi nổi nhiệt huyết và dũng khí như hai cụ Phan hay Nguyễn Ái Quốc, nhưng họ vẫn có tiếng nói đóng góp của mình một cách kín đáo, xa xôi hơn mà không kém phần tha thiết. Khi Tản Đà ngán ngẩm thốt lên:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi…
(Muốn làm thằng Cuội)
Ta cảm nhận phảng phất một nỗi sầu vong quốc, đồng thời một tâm trạng xót xa về sự bất lực của mình trước bi kịch dân tộc.
Đến thời Thơ mới, hình tượng con hổ trong Nhớ rừng của Thế Lữ đã thể hiện một cách đầy hi tráng mối hoài niệm về quá khứ oai hùng, vẻ vang của đất nước, xen lẫn nỗi nghẹn ngào đau khổ trong cảnh hiện tại “nay sa cơ bị nhục nhằn tù hãm”. Giọng thống thiết ấy, nuối tiếc quá khứ vàng son vang dội trong hình tượng những ông đồ 13 thời vẫn ngồi đấy:
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay.
(Ông đồ, Vũ Đình Liên)
Phải chăng là bộc lộ lòng thương cảm đối với lớp trí thức tài hoa của đất nước đang tàn tạ vì sự Âu hoá của bọn thực dân? Đau lòng trước thực trạng đó, có thể coi như một tâm tư yêu nước, xót xa vì nỗi đau của dân tộc.