Nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân – Hoc360.net

Chào mừng bạn đến với pgdgiolinhqt.edu.vn trong bài viết về Phan tich nhung net dac sac cua phong cach nghe thuat nguyen tuan the hien chúng tôi sẽ chia sẻ kinh nghiệm chuyên sâu của mình cung cấp kiến thức chuyên sâu dành cho bạn.

Tài liệu ôn thi THPTQG Ngữ Văn

Bộ tài liệu luyện thi Ngữ Văn được biên soạn theo cấu trúc đề thi mới nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo; dành cho học sinh THPT ôn luyện, chuẩn bị cho các kỳ thi Quốc Gia. HOC360.NET xin giới thiệu đến bạn đọc bộ tài liệu ôn tập bao gồm các phần về các kiến thức:

+ Trọng tâm kiến thức tác giả, tác phẩm cần ghi nhớ

+ Các đề bài ôn luyện các dạng văn nghị luận xã hội, văn học.

Hy vọng bộ tài liệu sẽ giúp ích cho các bạn học sinh lớp 12 ôn tập tốt và đạt kết quả thi cao!

Đề bài chi tiết:

Phân tích đoạn trích “Người lái đò sông Đà” để làm rõ những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.

—-~~~—-

I. Yêu cầu của đề:

  • Nội dung: Trên cơ sở hiểu biết về Nguyễn Tuân và tuỳ bút Người lái đò sông Đà, học sinh chọn phân tích những chi tiết tiêu biểu để làm nổi bật phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Bài viết có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng phải làm nổi bật được phong cách Nguyễn Tuân: độc đáo, tài hoa, uyên bác.

+ Độc đáo, tài hoa, uyên bác ở cách tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều phương diện thẩm mĩ, văn hoá: dòng sông được miêu tả như một công trình mĩ thuật tuyệt vời của tạo hoá; người lái đò được khắc hoạ với tư chất tài hoa, nghệ sĩ,…

+ Sử dụng thủ pháp của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như hội hoạ, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc, … huy động kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau: địa lí, lịch sử, võ thuật, quân sự,…

+ Cách sử dụng ngôn ngữ điêu luyện, hình ảnh mới lạ, độc đáo, câu văn biến hoá linh hoạt giàu chất nhạc, chất hoạ.

  • Phương pháp lập luận: Phân tích, chứng minh kết hợp với bình luận.
  • Tư liệu: Chủ yếu dẫn chứng trong tác phẩm.

II. Lập dàn ý

Mở bài

Có người nói, Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa về người nghệ sĩ. Đối với ông, văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Đúng vậy! Với phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân, Nguyễn Tuân đã tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu. Sức hấp dẫn của thể tuỳ bút, xét đến cùng phụ thuộc vào cái tôi của người cầm bút có thực sự độc đáo, phong phú và tài hoa hay không. Điều ấy nói rằng không phải ai cũng trở thành một bậc thầy như Nguyễn Tuân. Chỉ cần một văn phẩm Người lái đò sông Đà (1960) đã có thể tôn vinh Nguyễn Tuân là một cây tuỳ bút độc đáo, tài hoa, uyên bác.

Thân bài

Sau cách mạng, ngòi bút Nguyễn Tuân càng thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người tha thiết hơn. Ông có nhiều phát hiện hết sức tinh tế, độc đáo về núi sông, cỏ cây, con người trên đất nước mình. Những năm tháng đến với Tây Bắc là ông đi tìm “thứ vàng mười đã được thử lửa”, “chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc” để hát ca về thiên nhiên, đất nước, những con người đang ngày đêm thầm lặng trong gian lao vất vả để xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao heo hút này. Tập tuỳ bút Sông Đà nói chung và Người lái đò sông Đà nói riêng là bức tranh sinh động về thiên nhiên và cuộc sống của con người nơi đây, mang đậm cảm hứng lãng mạn trong sáng và thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân.

Xem thêm:  Văn mẫu lớp 11: Phân tích cái tôi ngất ngưởng trong bài thơ Bài ca

*Nét độc đáo, tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân trước hết ở tiếp cận và khai thác đối tượng từ nhiều phương diện thẩm mĩ văn hoá.

  • Dòng sông Đà được miêu tả như một công trình mĩ thuật tuyệt vời của hoá công. Mở đầu văn phẩm, Nguyễn Tuân đã dùng hai câu đề từ: “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông” và “Chúng thuỷ giai đông tẩu / Đà giang độc bắc lưu” để giới thiệu về hai đặc điểm của con sông: hùng vĩ, dữ dội và thơ mộng. Nó vừa là “kẻ thù số một” của con người, lại vừa như một “cố nhân” khi xa gợi nhớ gợi thương, một “người tình” chưa quen biết, một “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh, bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”…
  • Con người lao động trên dòng sông ấy thật giản dị, nghèo khó, cần cù nhưng được nhà văn xây dựng như một tài hoa, nghệ sĩ, trí dũng tuyệt vời trong nghề chèo đò vượt thác.

+ Tài hoa ở chỗ: ông lái đò nắm chắc từng đặc điểm của con sông, hiểu quy luật của dòng nước, nhớ đóng đanh vào từng con thác, luồng xoáy, luồng lành — dữ, tử — sinh…

+ Trí dũng ở chỗ: linh hoạt, tự tin, thông minh, gan dạ như một viên tướng trong trận đồ bát quái, đưa người và hàng vượt qua 73 con thác dữ tới điểm an toàn.

+ Nghệ sĩ ở chỗ sau mỗi chuyến đi đầy hiểm nguy, gian lao, vất vả nhưng ông vẫn tỏ ra bình thản, ung dung ngồi nướng cơm lam, bàn về cá anh vũ, nói cười rôm rả. Mọi hiểm nguy xèo xèo như bọt nước tan trong trí nhớ! Sông Đà chỉ như một chiếc lá thu, ông đến với nó như đến vối một ngưòi bạn lắm chứng nhiều tật mà vẫn phải ăn đời ở kiếp. Lao động thật gian lao nhưng tâm hồn người lái đò cũng thật lãng mạn, quả là một nghệ sĩ tài hoa trong nghề chèo đò vượt thác.

*Nét tài hoa, độc đáo trong phong cách Nguyễn Tuân còn thể hiện ở chỗ: ông soi chiếu đối tượng ở nhiều phương diện, mang đến cho người đọc lượng thông tin phong phú, chính xác và thú vị. sử dụng thủ pháp của nhiều ngành nghệ thuật như hội hoạ, âm nhạc, điện ảnh, điêu khắc,… Huy động kiến thức của nhiều lĩnh vực khác nhau: địa lí, lịch sử, võ thuật, quân sự…

  • Nguyễn Tuân không ưa cái gì bằng phẳng, nhợt nhạt, yên ổn. Ông là nhà văn của những tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội… Vì vậy, ông đã xoay ngắm một dáng sông, dựng nó dậy như một cơ thể sông biết gào thét, lồng lộn trên từng hàng chữ viết thật kì thú.
  • Diện mạo con sông được soi chiếu từ độ cao, độ hẹp, độ rộng đến độ sâu.

+ Độ cao thì “cảnh bờ sông dựng đứng vách thành”.

+ Độ hẹp: chỗ chẹt lòng sông như một cái yết hầu, đúng giờ ngọ mới có mặt trời, có thể ném nhẹ hòn đá sang bờ bên kia; con nai, con hổ có thể vọt sang một cách dễ dàng… Nói về độ hẹp của dòng sông, Nguyễn Tuân đã so sánh, miêu tả nó thật tỉ mỉ, phong phú, chính xác đến bất ngờ.

+ Độ rộng của con sông chỗ ghềnh Hát Loóng, “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió…”. Câu văn trùng điệp, xô đẩy, sinh động, hấp dẫn đến kì thú.

+ Những cái hút nước (xoáy nước) thể hiện độ sâu của lòng sông, đây là hình ảnh kì thú và ấn tượng nhất: “Hút nước xoáy tít lừ lừ như cánh quạ đàn… sâu như cái giếng bê tông thả xuống”, “tiếng nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc… ”, “con thuyền nào vô ý qua đây là bị lôi tuột hút xuống…” Với phong cách phóng túng, cái hút nước sông Đà còn dẫn trí tưởng tượng của Nguyễn Tuân đến trường liên tưởng khác của điện ảnh để truyền cảm giác vừa lạ, vừa rùng rợn cho người đọc. Ông tưởng tượng đến một anh bạn quay phim táo tợn nào đó, ngồi vào chiếc thuyền thúng để cả người cả máy quay hút xuống cái hút sông Đà rồi từ dưới mà lia ngược contre-plongée (quay ngược ống kính lên mà thu hình) thì mới đẹp và kì thú làm sao! “Cảnh nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người…”

Xem thêm:  Top 7 Đoạn văn cảm nhận bài thơ Gấu con chân vòng kiềng (Ngữ

+ Nói đến cảnh thác nước, Nguyễn Tuân khiến người đọc càng kinh ngạc và thán phục hơn khi ông lấy lửa, rừng để tả nước. “Tiếng thác nước nghe gần mãi lại réo to mãi lên, … nghe như oán trách, rồi lại như van xin… Thế rồi nó rống lên như một ngàn con trâu mộng lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa càng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Nhà văn sử dụng hàng loạt biện pháp tu từ nhân hoá, vật hoá, so sánh… làm thức dậy cả một thế giới thiên nhiên điên cuồng, man dại đang ở thời điểm dữ dội nhất, làm nổi bật lên sự khủng khiếp của thác nước sông Đà, tạo nên cảm giác mạnh cho người đọc.

+ Cảnh thác đá, đá ở đây mai phục đã hàng ngàn năm. Dưới bàn tay kì tài, đá sông Đà không còn là vật vô tri vô giác mà được miêu tả sống động như một nhân vật: mặt đứa nào đứa ấy ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó, đứng ngồi tuỳ thích; biết bày binh bố trận, có cửa sinh cửa tử, luồng lành luồng dữ, có phòng tuyến trước sau, biết dụ biết lừa, biết đánh, biết đá, biết hỏi, biết thách thức, reo hò vang dậy uy hiếp con người.

  • Hình ảnh ông đò như một dũng tướng, bình tâm xử trí tình huống một cách gan dạ, mưu trí, quyết liệt. Tay vẫn luôn giữ chặt mái chèo, chân kẹp chặt cuống lái, ông nhớ mặt từng đứa, mắt đóng đinh vào từng luồng lành luồng dữ, cửa tử cửa sinh để điều khiển chiếc thuyền. Ông đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên con sông như cưỡi trên lưng hổ, ông nắm chắc bờm sóng, ghì cương lái bám chắc vào dòng nước, không hề nao núng, luôn tỉnh táo, sáng suốt, thay đổi chiến thuật, ứng phó kịp thời. Lần lượt chọc thủng các phòng tuyến làm cho thằng đá tướng đứng chiến ở cửa, cái mặt xanh lè phải tiu nghỉu thất vọng.

=> Đoạn văn dài mà đặc sắc, Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ truyền hồn sống vào từng khối đá cái linh động của ma quái, biến chúng thành bầy thạch tinh hung hãn trong cuộc giao tranh với con ngưòi. Tả về thiên nhiên dữ dội, khủng khiếp chẳng qua để tồn vinh sức mạnh, lòng quả cảm, sự kì vĩ của con người trong cuộc chinh phục thiên nhiên; đồng thời mang lại cho người đọc những cảm giác thẩm mĩ mới mẻ.

  • Dòng sông Đà sẽ thiếu đi sự hấp dẫn, sinh động nếu như không có những trang văn dạt dào cảm xúc tả về quãng trung lưu. Hết thác, hết ghềnh, dòng sông trở nên mềm mại, duyên dáng, thơ mộng, trữ tình.

+ Quan sát từ trên máy bay, sông Đà như “cái dây thừng ngoằn nghèo… Từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây”. “Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Một câu văn dài, dài như dòng sông; một bức tranh thuỷ mặc cứ vương vấn mãi trong tâm hồn người đọc về một dải sông mềm mại, thơ mộng, đẹp như áng tóc của một mĩ nữ.

Xem thêm:  15 lễ hội dân gian tiêu biểu của xứ Huế - Air Booking

+ Quan sát cận cảnh, con sông được nhìn ở mọi không gian, thời gian bốn mùa xuân — hạ — thu — đông. Màu nước mùa xuân thì xanh như màu ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Cách quan sát, chọn từ ai bảo Nguyễn Tuân không khó nhọc.

+ Dòng sông Đà trong liên tưởng lại lấp lánh một vẻ đẹp cổ thi, vẻ đẹp như một “cố nhân” gợi nhớ khi xa, như sắc nắng vàng hoe của “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.

+ Niềm vui của tác giả khi gặp lại con sông Đà ùa tràn thành nhịp điệu: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng ròn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng… Nó đầm ấm như gặp lại cố nhân…” Niềm vui trào lên ngọn bút, vẽ lên bức tranh sông Đà đậm chất thơ, chất hoạ, chất nhạc.

+ Còn nữa, cảnh ven sông, đôi bờ thật yên ả, lặng tờ, một vẻ đẹp hoang sơ, vắng lặng đến tột cùng. Thiên nhiên trong trẻo đến kì thú: “Nương ngô như lá non, cỏ gianh đồi núi đang ra những búp nõn. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”. Dưới sông: “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”.

=> Nguyễn Tuân đã mang đến cho ngưòi đọc những trang văn thấm đẫm một vẻ đẹp tinh khôi mơn mởn, căng tràn nhựa sống của thiên nhiên. Chưa đến nhưng ta có thể cảm nhận được mọi sự sống đang cựa mình trong hơi thở của vũ trụ bao la…

*Cái đôc đáo, tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân còn thể hiện ở tài nghệ sử dụng ngôn ngữ điêu luyện. Nguyễn Tuân không quản khó nhọc, ông rất dụng công trong việc sử dụng từ ngữ, sáng tạo những hình ảnh mới lạ độc đáo, những câu văn linh hoạt, biến hoá, trùng điệp giàu chất nhạc, chất thơ, chất hoạ.

Ví dụ như những đoạn Nguyễn Tuân tả lòng sông hẹp bị chẹt lại như cái yết hầu; đoạn tả về sóng gió sông Đà: “Hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè như đòi nợ xuýt…”; tả những cái hút nước hay tiếng thác nước, thác đá… ; tả vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông đẹp mềm mại như áng tóc của một mĩ nữ; tả màu nước của sông Đà mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa… ; niềm vui của tác giả khi gặp lại con sông…

=> Vẻ đẹp ngôn ngữ của Nguyễn Tuân như thôi miên người đọc vào mê cung cảnh vật sông Đà đẹp đến mê hồn, gợi bao khao khát về một: “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh, bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”.

Kết bài

Người lái đò sông Đà đã đạt tới trình độ nghệ thuật bậc thầy về thể loại tuỳ bút, ở đó Nguyễn Tuân đã chứng tỏ một cái tôi độc đáo, tài hoa uyên bác và phóng túng. Nhà văn đã viết về một dòng sông như một công trình mĩ thuật tuyệt vời của tạo hoá; viết về con người lao động bình thường trên sông nước mà rất đỗi nghệ sĩ, tài hoa. Ông viết bằng cả đôi mắt và tâm hồn của một nghệ sĩ tài năng, tinh tế luôn nặng lòng với quê hương, đất nước.

» Xem thêm : Cảm nhận đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường tại đây.

Rate this post

KevinNguyen

Kevin Nguyễn - Người quản trị nội dung web là một chuyên gia sáng tạo và chuyên nghiệp trong việc quản lý, phát triển và duy trì nội dung website. Với khả năng phân tích và đánh giá thông tin chính xác, anh/chị đảm bảo cung cấp thông tin hữu ích và đáng tin cậy cho cộng đồng.