Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích (26 mẫu)

Chào mừng bạn đến với pgdgiolinhqt.edu.vn trong bài viết về Dan y trong vai nguoi chung kien ke lai truyen so dua chúng tôi sẽ chia sẻ kinh nghiệm chuyên sâu của mình cung cấp kiến thức chuyên sâu dành cho bạn.

Truyện cổ tích là một thể loại văn học dân gian quen thuộc. Một số truyện nổi tiếng có thể kể đến như Thạch Sanh, Sọ Dừa, Tấm Cám, Em bé thông minh… Hôm nay, Download.vn sẽ cung cấp Bài văn mẫu lớp 6: Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích, nằm trong chương trình môn Ngữ Văn.

Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích

Tài liệu sẽ bao gồm dàn ý và 26 bài văn mẫu lớp 6, cung cấp những bài văn mẫu hay nhất. Các bạn học sinh có thể tham khảo nội dung chi tiết ngay sau đây.

Dàn ý đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích

1. Mở bài

Đóng vai nhân vật để tự giới thiệu sơ lược về mình và câu chuyện định kể.

2. Thân bài: Kể lại diễn biến câu chuyện

– Xuất thân của các nhân vật.

– Hoàn cảnh diễn ra câu chuyện.

– Diễn biến chính:

  • Sự việc 1: …
  • Sự việc 2: …
  • Sự việc 3: …

3. Kết bài

Kết thúc câu chuyện và nêu bài học được rút ra từ câu chuyện.

Đóng vai nhân vật kể lại truyện cổ tích Thạch Sanh

Đóng vai nhân vật – Thạch Sanh

Tôi là Thạch Sanh. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, tôi sống lủi thủi một mình trong túp lều cũ dựng dưới gốc đa. Cả gia tài của tôi chỉ có một lưỡi búa để hàng ngày lên rừng đốn củi kiếm ăn.

Một hôm, có người hàng rượu tên là Lý Thông đi qua chỗ tôi, nghỉ ở gốc đa. Lý Thông thấy tôi gánh củi về liền lân la gợi chuyện và nói kết nghĩa anh em với tôi. Tôi cảm động lắm, vui vẻ nhận lời. Lý Thông là anh còn tôi là em. Tôi từ giã gốc đa, đến sống chung với mẹ con Lý Thông.

Đi kiếm củi về, tôi thấy mâm cơm có rất nhiều thức ăn ngon. Chưa hiểu nhà có việc gì thì anh Lý Thông nói với tôi:

– Đêm nay, đến phiên anh canh miếu thờ, ngặt vì dở cất mẻ rượu, em chịu khó thay anh, đến sáng thì về.

Tôi không nghĩ ngợi gì, vui vẻ nhận lời. Đêm hôm ấy, khi tôi đang mơ màng nửa ngủ nửa thức thì một con trăn tinh hiện ra. Nó nhe răng, giơ vuốt định vồ lấy tôi. Tôi giơ cao búa đánh vào con chằn tinh. Tôi xả xác nó làm hai mảnh. Trăn tinh hiện nguyên hình là một con trăn khổng lồ và để lại bên mình một bộ cung bằng vàng.

Tôi chặt đầu quái vật và nhặt bộ cung tên bằng vàng rồi xách đầu quái vật về nhà. Tôi gọi cửa mãi anh Lý Thông mới ra mở cửa. Không hiểu sao mẹ con anh Lý Thông cứ van lạy tôi rối rít.

Khi vào nhà, tôi kể đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, anh Lý Thông nói với tôi: – Con trăn ấy là của vua nuôi đã lâu. Nay em giết nó, tất không khỏi bị tội chết. Thôi, bây giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn đi ngay đi. Có chuyện gì để anh ở nhà lo liệu.

Tôi không nghi ngờ gì liền trở về túp lều dưới gốc đa ngày nào. Tôi lại sống bằng nghề kiếm củi.

Một hôm, tôi đang ngồi dưới gốc đa thì trông thấy một con đại bàng quắp một người con gái. Tôi liền lấy cung tên vàng ra bắn con đại bàng. Mũi tên trúng vào cánh làm nó bị thương. Nhưng nó vẫn cố bay về hang trong núi. Theo vết máu, tôi tìm được chỗ ở của con đại bàng.

Nghe có lễ hội đông vui, tôi liền tìm đến xem. Nào ngờ, ở đó, tôi gặp anh Lý Thông. Anh ấy đã kể cho tôi nghe việc tìm công chúa. Tôi thật thà kể cho anh nghe về việc tôi bắn đại bàng và biết được chỗ ở của nó. Anh Lý Thông liền nhờ tôi dẫn đến chỗ đại bàng.

Tôi xin được xuống hang cứu công chúa. Quân sĩ lấy dây buộc ngang lưng tôi rồi dòng xuống hang. Xuống tới đáy hang, tôi thấy đại bàng hiện nguyên hình là một con yêu tinh ở trên núi. Tuy bị thương nặng nhưng con quái vật vẫn rất hung dữ. Nó giơ vuốt và lao vào tôi. Tôi dùng cung tên vàng bắn mù hai mắt nó. Tôi chặt đứt vuốt sắc, bổ vỡ đầu con quái vật. Tôi lấy dây buộc ngang người công chúa và ra hiệu cho quân sĩ của Lý Thông kéo lên.

Tôi chờ quân sĩ thả dây xuống kéo tôi lên, nào ngờ cửa hang đã bị lấp lại. Lúc đó, tôi mới biết là Lý Thông hại tôi. Tôi tìm cách lên. Đi đến cuối hang, tôi thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú bị nhốt trong cũi sắt. Tôi dùng cung tên vàng bắn tan cũi sắt và cứu chàng ra. Chàng trai cho biết mình là thái tử con vua Thủy Tề.

Thái tử thoát nạn, cám ơn tôi và mời tôi xuống thủy phủ chơi. Vua Thủy Tề vui mừng được gặp lại con. Biết tôi là người cứu con trai mình, vua Thủy Tề cảm ơn tôi và biếu tôi rất nhiều vàng bạc châu báu. Tôi không lấy vàng bạc châu báu mà chỉ xin một cây đàn, rồi tôi trở về gốc đa.

Một hôm, tôi bị quân lính của nhà vua tới và bắt giam tôi vào ngục. Lúc đó, tôi mới biết của cải của nhà vua bị mất trộm và được giấu ở gốc đa nơi tôi ở. Tôi bị bắt vì nhà vua cho là chính tôi đã ăn trộm. Lúc đó tôi mới nghĩ là chính chằn tinh và đại bàng bị giết đã báo thù tôi.

Trong ngục tối, tôi đem đàn vua Thủy Tề cho ra gảy. Không ngờ tiếng đàn của tôi vẳng đến hoàng cung. Nàng công chúa được tôi cứu đòi vua cha cho được gặp người đánh đàn. Nhà vua cho đưa tôi đến. Trước mặt mọi người, tôi kể hết đầu đuôi câu chuyện của mình, từ chuyện kết bạn với Lý Thông, đến chuyện chém chằn tinh, giết đại bàng, cứu công chúa và cuối cùng bị bắt oan vào ngục thất.

Cho đến lúc này tôi mới biết chằn tinh không phải vua nuôi mà Lý Thông đã nham hiểm lừa tôi đi chết thay cho hắn. Và lúc này, tôi cũng mới biết, nàng công chúa đã bị câm sau khi được tôi cứu khỏi hang. Nàng chỉ vui cười trở lại khi nghe tiếng đàn của tôi.

Nhà vua cho bắt mẹ con Lý Thông giam lại và giao cho tôi xét xử. Nhà vua gả công chúa cho tôi. Lễ cưới tưng bừng nhất kinh kì. Hoàng tử các nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn lấy làm tức giận, họ hội binh lính của mười tám nước sang đánh. Tôi xin nhà vua đừng động binh.

Tôi lấy đàn thần ra gảy. Quân mười tám nước bủn rủn chân tay không còn nghĩ gì đến chuyện đánh nhau nữa. Cuối cùng, tất cả đều phải xin hàng.

Tôi sai dọn một bữa cơm thết đãi những kẻ thua trận. Tôi cho dọn ra một niêu cơm nhỏ. Cả mấy vạn tướng lính thấy niêu cơm như vậy liền bĩu môi cười. Tôi liền hứa sẽ trọng thưởng cho người ăn hết niêu cơm. Quân mười tám nước ăn mãi không hết. Cơm trong niêu hết lại đầy. Tất cả cúi đầu lạy tạ vợ chồng tôi rồi kéo quân về nước.

Vì không có con trai nối ngôi, nhà vua đã nhường ngôi cho tôi. Từ đó, tôi làm một ông vua tốt và dân chúng có cuộc sống no ấm, yên bình.

Đóng vai nhân vật – Lí Thông

Tôi là Lý Thông, một người chuyên bán rượu. Trong một lần đi bán rượu ở xã Cao Bình, ngồi nghỉ chân tại một quán nước gần gốc đa, tôi thấy một người vác về một đống củi to. Tôi nghĩ bụng đây chắc chắn là một người có sức khỏe phi thường, liền lấn lá làm quen. Cậu ta tên là Thạch Sanh, từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, của cải chẳng có gì ngoài chiếc búa cha để lại. Tôi biết tên này thật thà, dễ lợi dụng nên đã quyết định kết nghĩa anh em với Thạch Sanh, rồi bảo cậu ta về ở cùng với mình và mẹ già.

Từ ngày có Thạch Sanh, mẹ con tôi đỡ vất vả đi nhiều. Bấy giờ, trong vùng có một con chằn tinh rất hung ác, phép thuật vô song, thường xuyên bắt người ăn thịt. Để yên ổn, dân làng tình nguyện nộp người cho nó để nó ăn thịt, không quấy phá dân làng nữa. Lần đó, đến lượt tôi, tôi bèn nghĩ ra cách là nhờ Thạch Sanh đi thay mình. Tối đó, tôi mời Thạch Sanh ăn uống no say, rồi cất lời nhờ cậy đi trông miếu thay. Thạch Sanh không nghĩ ngợi nhiều liền nhận lời ngay. Tôi và mẹ vui mừng lắm.

Đêm hôm đó, tôi đang ngủ say thì bỗng có tiếng gọi của Thạch Sanh. Mẹ con tôi nghĩ Thạch Sanh về đòi mạng, van xin khẩn thiết. Thạch Sanh mới kể lại chuyện giết chằn tinh, bây giờ mẹ con tôi mới an tâm. Tôi còn nghĩ ra một kế lừa Thạch Sanh rằng đó là con vật nhà vua nuôi, không giết được và bảo Thạch Sanh về lại gốc đa cũ đi. Thạch Sạch tin lời ngay. Sau khi lừa được Thạch Sanh, tôi liền mang đầu chằn tinh lên quan lĩnh thưởng. Tôi được vua khen ngợi và phong làm đô đốc.

Năm đó, nhà vua có một người con gái đến tuổi lấy chồng nhưng chưa chọn được ai thích hợp. Vua cha bèn nghĩ ra cách ném cầu kén rể, ai bắt được cầu sẽ được làm phò mã. Nhưng khi công chúa vừa lên lầu chuẩn bị ném cầu thì bị một con đại bàng cắp đi mất. Tôi được vua cha giao cho nhiệm vụ đi tìm công chúa. Tình cờ, tôi gặp được Thạch Sanh. Tôi kể cho cậu ta nghe về việc đang đi tìm công chúa. Thạch Sanh nói rằng mình biết hang của đại bàng và đề nghị được đi cùng. Cậu ta dẫn tôi cùng quân lính đến hang của đại bàng. Tôi buộc dây vào thắt lưng hắn, dặn rằng khi vào cứu được công chúa thì hãy lấy dây để kéo công chua lên, sau đó sẽ thả dây xuống để cứu em. Khi Thạch Sanh cứu được công chúa, tôi sai người lấp cửa hang lại.

Từ lúc công chúa về cung không nói không rằng, nhà vua rất lo lắng. Tôi đã mời rất nhiều nhà sư, đạo gia về để lễ tế nhưng không có tác dụng. Một hôm, trong từ trong tù phát ra một tiếng đàn của ai đó. Bỗng công chúa cất tiếng nói và muốn gặp người đánh đàn. Vua liền truyền người đánh đàn vào cung. Thì ra lại chính là Thạch Sanh. Cậu ta kể rõ sự tình cho nhà vua. Nghe xong, vua rất tức giận, sai người trừng phạt tôi. Nhưng Thạch Sanh nể tình nghĩa năm xưa nên đã tha mạng cho tôi.

Đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích Cây khế

Đóng vai nhân vật – Người em

Sau khi cha mẹ mất, tôi và anh trai sống cùng nhau. Chúng tôi chăm chỉ làm lụng nên cũng đủ ăn. Từ ngày có vợ, anh của tôi đâm ra lười biếng. Vợ chồng tôi phải làm lụng vất vả mới có của ăn của để.

Một hôm, anh trai gọi tôi đến bàn bạc chuyện chia gia tài. Vì là phận em, tôi xin được nghe theo lời anh. Tôi nhận được một túp lều nhỏ, ở trước cửa có một cây khế. Dù khó khăn, nhưng tôi và vợ vẫn sống hạnh phúc, êm đềm. Hằng ngày, tôi và vợ vẫn thay nhau chăm sóc cây khế. Đến mùa, những chùm quả chín lúc lỉu trên cây. Tôi và vợ bàn nhau hái khế ra chợ bán. Sáng hôm đó, tôi ra vườn cây để hái khế thì nghe thấy trên ngọn cây có tiếng rung mạnh như có người. Tôi gọi vợ ra xem, thì nhìn thấy một con chim lớn đang ăn khế chín. Tôi lấy làm lạ lắm, chưa bao giờ thấy một con chim nào to như vậy. Tôi liền bảo vợ cứ đợi cho chim ăn xong mới ra hái. Suốt một tháng trời, hằng ngày chim cứ đến ăn vào lúc sáng sớm.

Vợ tôi xót ruột. Một hôm thấy chim đang ăn khế, liền chạy ra nói:

– Ông chim ơi, ông ăn như thế thì nhà cháu còn khế đâu mà bán! Cả nhà cháu chỉ nhờ vào cây khế thôi!

Xem thêm:  Tấm lòng của nhà văn Tô Hoài với đồng bào miền núi qua Vợ

Chim nói:

– Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng!

Nghĩ đây chắc hẳn là chim thần, tôi bảo vợ làm theo lời chim nói. Sáng sớm hôm sau, chim thần bay đến. Tôi xách túi ra, chim nằm rạp xuống đất cho tôi trèo lên. Tôi ngồi trên lưng chim mà lòng có chút lo lắng. Chim bay qua bao nhiêu là miền, hết đồng ruộng đến rừng xanh, hết rừng xanh đến biển cả. Ra tới giữa biển, chim rẽ vào một cái đảo, rồi đáp xuống cửa một cái hang.

Chim ra hiệu cho tôi bước vào. Ngay từ cửa đã có rất nhiều thứ đá trong như thủy tinh và hổ phách đủ thứ màu. Tôi thấy hang sâu và rộng nên không dám vào, chỉ dám nhặt ít vàng, kim cương ở ngoài rồi ra ngoài. Tôi bảo chim thần bay về. Chim lại cất cánh đưa tôi về nhà. Từ đó, cuộc sống của gia đình tôi trở nên khá giả hơn trước. Chúng tôi còn giúp đỡ được rất nhiều người dân nghèo khổ.

Một hôm, anh trai của tôi đến chơi. Tôi đoán biết anh nghe được chuyện nên đến hỏi thăm. Nghe anh hỏi chuyện, tôi liền kể cho anh nghe. Anh liền thương lượng để đổi tài sản của mình lấy túp lều và cây khế. Thầy anh nài nỉ mãi, tôi cũng ưng thuận.

Kể từ đó, anh trai và chị dâu của tôi dọn đến ở trong túp lều. Tôi nghe người trong làng kể lại. Hằng ngày, họ chỉ ngồi ăn rồi chờ chim đến. Một buổi sáng nọ, khi thấy luồng gió mạnh nổi lên, và ngọn cây khế rung chuyển. Họ biết là chim thần đến liền nói:

– Chim thần ơi, cả nhà tôi trông vào cây khế, bây giờ chim ăn thì tôi lấy gì mà sống?

Chim thần cũng nói y như với tôi:

– Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng!

Anh trai và chị dâu của tôi cứ bàn qua tính lại. Rồi cuối cùng họ quyết định may cái túi to gấp ba lần, như một cái tay nải lớn. Sáng hôm sau, chim thần đến đưa anh tôi ra hòn đảo. Nhìn thấy vàng bạc, kim cương, anh trai tôi cố nhặt cho đầy túi. Không chỉ vậy, anh ta còn cho cả vào túi quần, túi ào. Trên đường về, vì quá nặng lại gặp gió lớn, chim đâm bổ xuống biển. Anh trai tôi bị sóng cuốn trôi, bao nhiêu của cải mất hết. Còn chim thần chỉ bị ướt lông, ướt cánh nên lại vùng lên trời bay đi. May có người dân đánh cá ngang qua mới cứu được. Anh trai tôi trở về, kể rõ sự tình cho tôi nghe và tỏ ra rất hối hận.

Đóng vai nhân vật – Người anh

Cha mẹ mất sớm, tôi sống cùng với em trai. Hai anh em tôi chăm chỉ làm ăn. Rồi tôi và em trai cũng đến tuổi lấy vợ. Từ đó, tình cảm giữa hai chúng tôi không còn mặn mà như xưa nữa.

Hai vợ chồng tôi tính đến chuyện ở riêng cho hai vợ chồng người em. Tôi bàn với vợ, lấy tài sản và chia cho em trai căn nhà tranh lụp xụp trước nhà có một cây khế. Tuy vậy, hai vợ chồng cậu em không phàn nàn một lời, vẫn chịu khó làm ăn. Cho đến một hôm nghe người ta nói chuyện hiện nay vợ chồng người em đã rất giàu có thì tôi lấy làm tò mò liền sang gặp gỡ hỏi thăm. Em trai tôi thật thà nên đã kể lại mọi chuyện cho tôi nghe.

Hằng ngày, vợ chồng nó vẫn chăm sóc cho cây khế. Đến mùa, cây khế ra hoa kết trái và thu hoạch, em tôi mang ra chợ bán. Bỗng một hôm, có con chim lạ bay đến ăn khế của em. Nó ăn rất nhiều khế trên cây, ăn những quả thơm ngon nhất, cứ như thế suốt gần tháng trời.

Em tôi liền nói với chim, thì nó trả lời thế này:

– Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng. Vợ chồng nó làm theo lời chim. Sáng hôm sau, như đã hẹn chim bay đến đưa em tôi đi lấy vàng. Đặt chân lên đảo, có biết bao thứ đá quý, bạc vàng. Nhưng đứa em dại dột của tôi chỉ lấy một ít vàng và kim cương rồi ra về. Từ đấy, cuộc sống của nó trở nên khá giả.

Biết rõ câu chuyện, tôi bàn mưu cùng vợ, gạ đổi hết tài sản của mình để lấy túp lều tranh và cây khế. Thế là từ đó, tôi chỉ có một việc là trông mong chim lạ bay đến ăn khế. Lâu dần, con chim cũng xuất hiện. Không thể kiên nhẫn ợi lâu hơn nữa, khi chim thần vừa ăn được vài quả tôi đã chạy ra hỏi như những gì em tôi đã nói. Và tôi cũng được chim lạ trả lời y hệt. Chỉ chờ có thế, vợ chồng tôi hí hửng, vội vàng may túi. Nhưng không phải túi ba gang như cậu em ngốc nghếch, tôi may hẳn một túi sáu gang.

Sáng hôm sau, chim thần cũng bay đến đưa tôi đến đảo vàng. Vừa đặt chân lên đảo tôi đã hoa mắt trước bao nhiêu vàng và đá quý. Càng vào sâu bên trong, tôi càng choáng ngợp. Quên hết mọi mệt nhọc, tôi ra sức nhét thật nhiều vàng vào cái túi sáu gang đã chuẩn bị. Dường như thấy vẫn chưa đủ, tôi còn cố nhét thêm vào ông tay áo và ống quần, rồi buộc chặt lại. Chim thần đợi tôi lâu quá nên thúc giục ra về. Nằm trên lưng chim, tôi vui mừng, tưởng tượng về cuộc sống giàu sang sắp tới của mình. Đang mơ màng sung sướng, bỗng một cơn gió thổi mạnh. Thì ra chim thần đã bay tới biển. Rồi bỗng nhiên, chim thần đâm bổ xuống biển. Sóng cuốn hết tất cả vàng bạc tôi vừa lấy được. Tôi kêu cứu, nhưng chim thần đã bay lên trời. Tôi vùng vẫy giữa nước biển mênh mông, hối hận vì lòng tham của mình.

Đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích Sọ Dừa

Đóng vai nhân vật – Sọ Dừa

Tôi là Sọ Dừa. Khi mẹ sinh ra, tôi không có chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc như quả dừa. Bà buồn quá, định vứt tôi đi, thì tôi liền nói:

– Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp.

Vì thương tôi nên mẹ đã để lại nuôi, đặt cho tôi cái tên là Sọ Dừa. Lớn lên, tôi vẫn như lúc nhỏ, lăn lông lốc trong nhà. Mẹ liền nói với tôi:

– Con nhà người ta báy tám tuổi đã đi ở chăn bò, còn mày chẳng được tích sự gì.

Tôi liền bảo với mẹ:

– Chuyện gì chứ chăn bò con cũng làm được. Mẹ cứ xin phú ông cho con đi chăn bò.

Nghe vậy, mẹ tôi liền đến hỏi phú ông. Từ đó tôi đến ở nhà phú ông. Ngày ngày, tôi lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà, đàn bò béo tốt hẳn ra. Tôi thấy phú ông mừng ra mặt.

Ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho tôi. Hai cô chị độc ác nên thường hắt hủi tôi. Chỉ có cô út hiền lành, đối xử với với tôi.

Một hôm, tôi biến thành người, ngồi thổi sáo trên lưng trâu thì tiếng động, biết có người nên tôi lại hóa về hình dáng cũ. Từ đó, cô út càng chăm sóc tôi nhiều hơn, có thức ăn ngon lại giấu đem cho tôi.

Cuối mùa ở, tôi liền về giục mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Mẹ tôi ửng sốt lắm, nhưng thấy tôi năn nỉ mãi nên cũng sang hỏi phú ông. Khi trở về, bà nói rằng phú ông yêu cầu phải sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm mới đồng ý gả con gái. Tôi nói với mẹ cứ yên tâm.

Đến ngày hẹn, mẹ tôi vô cùng ngạc nhiên khi trong nhà bỗng có đủ những lễ vật mà phú ông yêu cầu. Không chỉ vậy, còn có chục giai nhân khiêng sính lễ sang nhà phú ông. Phú ông liền hỏi ba cô con gái xem có ai đồng ý, thì chỉ có cô út.

Trong ngày cưới, tôi cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, tôi biến thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú sang đón cô út về làm vợ. Hai vợ chồng tôi sống hạnh phúc. Tôi ngày đêm miệt mài đèn sách và thi đỗ trạng nguyên. Chẳng bao lâu, nhà vua cử tôi đi sứ. Trước khi đi, tôi đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giữ luôn các thứ ấy bên mình để có lúc cần dùng đến.

Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, tôi nghe thấy tiếng con gà trống gáy vang ba lần:

– Ò… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.

Tôi hạ lệnh cho thuyền vào xem, thì gặp lại vợ mình. Vợ chồng đoàn tụ hạnh phúc. Tôi đưa vợ về nhà, mở tiệc mừng, mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai người chị của vợ tôi tranh nhau kể chuyện nàng gặp phải rủi ro, tỏ vẻ thương tiếc lắm. Tôi không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Nhìn thấy em mình đã trở về bình an, họ xấu hổ bỏ về.

Đóng vai nhân vật – Người mẹ

Một hôm, trời nắng to. Tôi đi vào rừng hái củi cho chủ, nhưng khát nước quá mà không tìm thấy suối. Thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, tôi bưng lên uống.

Không ngờ, về nhà thì mang thai. Tôi sinh ra một đứa trẻ không chân, không tay, tròn như một quả dừa. Tôi buồn lắm, toan vứt đi đứa con bảo:

– Mẹ ơi, con là người đấy. Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.

Nghĩ lại, thấy thương con, tôi đành để con lại nuôi và đặt tên cho nó là Sọ Dừa. Lớn lên, Sọ Dừa vẫn không khác lúc nhỏ, cứ lăn lông lốc trong nhà, chẳng làm được tích sự gì. Tôi cứ than phiền:

– Con nhà người ta bảy, tám tuổi đã đi chăn bò, chăn trâu. Họ giúp bố mẹ được nhiều việc. Còn mày thì chẳng làm được việc gì cả.

Nghe lời tôi nói như vậy, Sọ Dừa nói:

– Gì chứ chăn bò thì con chăn cũng được. Mẹ cứ nói với phú ông cho con ở chăn bò.

Nghe con nói như vậy, tôi liền đến hỏi phú ông. Phú ông đồng ý. Sọ Dừa chăn bò rất giỏi, con nào con nấy bụng no căng. Phú ông mừng lắm. Đến mùa, tôi tớ trong nhà ra đồng hết nên ba cô con gái phải thay phiên nhau đi đưa cơm cho Sọ Dừa. Nghe Sọ Dừa kể lại thì hai cô chị rất ác nghiệt, kiêu căng luôn hắt hủi nó. Còn cô út rất hiền lành, tính hay thương người nên đối đãi với nó rất tử tế. Có của ngon vật lạ cô út thường giấu đem cho Sọ Dừa.

Tôi vô cùng ngạc nhiên khi cuối năm ấy, Sọ Dừa giục tôi đến hỏi con gái nhà phú ông làm vợ. Tôi nghĩ một người ở như Sọ Dừa làm sao sánh được với con gái nhà phú ông nhưng vì thương con nên cũng nghe theo. Tôi sắm một buồng cau rồi đến nhà phú ông thưa chuyện. Thấy tôi đặt vấn đề hỏi con gái phú ông cho Sọ Dừa. Ông ta cười mỉa và nói vẻ thách thức:

– Ừ, được! Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.

Nghe ông ta nói vậy tôi bàng hoàng và nghĩ rằng chẳng bao giờ có đủ các thứ đó. Về nhà tôi nói với Sọ Dừa và khuyên nó đừng bao giờ nghĩ đến việc lấy vợ nữa. Không ngờ Sọ Dừa nói với tôi một cách quả quyết:

– Mẹ đừng lo con sẽ lo đủ các thứ đó.

Đúng hẹn, tự nhiên tôi thấy trong nhà có bao nhiêu đồ sính lễ, lại có cả chục gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà phú ông. Lúc đó tôi nghĩ rằng Sọ Dừa không phải là người trần. Phú ông nhìn thấy lễ vật, hoa cả mắt, lúng túng nói với tôi:

– Để ta hỏi con gái ta xem, có đứa nào ưng lấy thằng Sọ Dừa.

Xem thêm:  Văn mẫu lớp 9: Đóng vai Kiều Nguyệt Nga kể lại Lục Vân Tiên cứu

Lão gọi ba đứa con gái ra rồi lần lượt hỏi. Hai cô chị bĩu môi chê bai. Còn cô út cúi mặt xuống, tỏ ý bằng lòng. Phú ông đành phải nhận lễ và gả cô con gái cho Sọ Dừa.

Lúc gần rước dâu, tôi chẳng thấy Sọ Dừa đâu mà chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú cùng cô út của phú ông từ phòng cô dâu đi ra. Mọi người đều sửng sốt, mừng rỡ. Hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Thấy cô út là đứa con dâu hiền lại hiếu thảo nên tôi cũng mừng thầm.

Ngày ngày Sọ Dừa thì mải mê đèn sách chờ khoa thi, còn cô út thì se tơ dệt vải. Ngày thi đã đến Sọ Dừa đã đỗ Trạng nguyên không bao lâu nhà vua ban chiếu quan trạng đi sứ. Hai vợ chồng Sọ Dừa chia tay nhau nhưng vô cùng quyến luyến, khiến tôi không khỏi động lòng. Trước khi lên đường Sọ Dừa còn gọi vợ vào nhà và dặn dò kĩ lắm.

Một hôm hai cô chị đến xin phép tôi cho cô út đi chơi. Nghĩ bụng con dâu phải xa chồng nên buồn bực, tôi liền đồng ý cho cô út đi chơi cùng cho khuây khoả. Thế rồi từ hôm đó, chẳng thấy cô út về, tôi lo lắng chạy sang nhà hỏi phú ông thì hai cô chị kể rằng: Khi chèo thuyền ra biển cô út đã sảy chân ngã xuống biển chết. Nghe tin đó tôi vô cùng đau lòng, thương xót cho cô con dâu hiền lành xấu số. Hết hạn đi sứ Sọ Dừa đã trở về, tôi không ngờ nó lại cùng đi với vợ nữa. Nghe con kể lại, tôi mới biết rõ sự tình.

Đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích Vua chích chòe

Đóng vai nhân vật – Công chúa

Tôi vốn là công chúa độc nhất của vua cha. Vốn xinh đẹp, lại được nuông chiều từ nhỏ nên tôi khá kiêu. Khi đến tuổi gả chồng, rất nhiều người đến cầu hôn nhưng đều bị tôi từ chối. Thậm chí tôi còn chế giễu, nhạo báng họ. Một lần nọ, vua cha cho mời các chàng trai ở khắp các nước xa gần tới mở tiệc linh đình để chọn phò mã. Rất nhiều người đến, họ đứng theo ngôi thứ, đứng trên cùng là vua các nước rồi các công tước, các ông hoàng, các bá tước, các nam tước, cuối cùng là những người dòng dõi quý tộc.

Tôi được vua cha dẫn đi xem mắt từng người. Nhưng chẳng có ai là tôi cảm thấy vừa ý: người thì quá mập; người quá mảnh khảnh; người thì lại lùn; người thì mặt mày xanh xao… Cuối cùng, tôi nhìn thấy một người có cằm hơi cong như mỏ chim chích chòe, tôi nói anh ta chẳng khác gì chim chích choè có mỏ. Từ đó, tôi nghe đồn anh ta được mọi người gọi là Vua chích chòe.

Thấy tôi chê bai và giễu cợt tất cả mọi người xung quanh, vua cha nổi cơn thịnh nộ và ban truyền, nếu có người ăn mày nào đi qua cung vua, vua sẽ gả tôi cho người ấy.

Mấy hôm sau có một người hát rong đi qua, đứng ngây dưới cửa sổ cất tiếng hát, mong sẽ được ban thưởng cho vài xu. Nghe thấy vậy nhà vua ban truyền:

– Hãy cho tên hát rong vào đây!

Người hát rong đi vào cung vua, hát cho vua và tôi nghe, rồi đưa tay xin tiền thưởng. Nhà vua bảo:

– Ta rất thích tiếng hát của ngươi, vì vậy ta gả con gái ta cho ngươi.

Tôi sợ hãi, van xin nhưng vua cha vẫn kiên quyết:

– Cha đã thề rằng sẽ gả con cho người ăn mày đầu tiên đi qua cung vua, cha muốn giữ lời thề đó.

Lời van xin chẳng làm lay chuyển vua cha. Linh mục được mời ngay tới để làm hôn lễ của tôi lấy người hát rong. Hôn lễ cử hành xong, vua cha nói với tôi:

– Theo tục lệ, vợ một người hát rong không được ở lâu lại trong cung vua, giờ thì con phải theo chồng ra khỏi cung.

Tôi buồn bã đi theo người chồng của mình. Tới một khu rừng lớn, tôi hỏi:

– Rừng đẹp này của ai?

Anh ta nói:

– Rừng của Vua chích choè, nếu nàng lấy ông ta thì hẳn rừng đã là của nàng.

Tôi tiếc nuối thốt lên:

– Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.

Một lúc sau tới một thảo nguyên, tôi lại hỏi:

– Thảo nguyên xanh đẹp của ai?

– Thảo nguyên của Vua chích choè.

– Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.

Rồi chúng tôi tới một thành phố lớn, tôi lại hỏi:

– Thành phố mỹ lệ này của ai?

– Thành phố mỹ lệ của Vua chích choè.

– Tôi thật đáng thương, đáng lẽ ra tôi nên đồng ý lấy Vua chích chòe.

Chồng tôi liền nói:

– Tôi không hài lòng một chút nào, tại sao nàng lại cứ luôn luôn mong có người chồng khác, thế tôi không xứng đáng hay sao?

Tôi không nói được gì nữa, mà chỉ lặng lẽ đi theo sau. Tới một túp lều, tôi lại hỏi:

– Trời ơi, nhà ai mà nhỏ, thảm thương thế này?

Chồng tôi đáp:

– Nhà của chúng ta đó!

Tôi cúi người bước vào trong, rồi hỏi:

– Người hầu của anh đâu?

Anh ta trả lời:

– Người hầu nào? Muốn làm gì thì tự mình làm lấy. Giờ em hãy nhóm bếp nấu ăn đi, anh mệt lắm rồi.

Nhưng tôi nào có biết nhóm bếp và nấu ăn, chồng tôi đành phải nhúng tay vào làm công việc mới xong. Sau bữa ăn, tôi mệt mỏi ngủ thiếp đi. Ngày hôm sau, tôi bị chồng đánh thức dậy để làm việc nhà. Cứ như vậy mấy ngày thì lương ăn dự trữ hết. Người hát rong bảo tôi:

– Mình ạ, chỉ ngồi ăn không kiếm được thêm gì cả cứ như thế này mãi chắc không được lâu, hay là em đan sọt bán.

Anh ta vào rừng lấy tre nứa về, tôi phải chẻ lạt đan sọt. Nhưng bàn tay của tôi bị cạnh sắc của tre nứa cửa rỉ máu. Chồng nói với tôi:

– Thế thì không được, có lẽ dệt vải hợp với em hơn.

Tôi ngồi tập quay sợi, nhưng rồi những ngón tay lại bị sợi cứa chảy máu. Chồng tôi nói:

– Em chẳng thể làm được việc gì, sống với em thật khổ. Giờ thì chắc ta phải xoay ra đi buôn nồi và bát đĩa. Em ngồi ở chợ và bán hàng.

Tôi nghe vậy, thì nghĩ bụng:

– Nếu như dân nước mình họ tới đây mua bán, nhìn thấy mình họ sẽ cười nhạo mình mất.

Nhưng tôi vẫn phải làm theo lời chồng mình. Lúc đầu, khách đến mua khá đông, họ trả tiền hàng mà không hề mặc cả, thậm chí có người trả tiền nhưng không lấy hàng. Cuộc sống của vợ chồng tôi khá sung túc. Một lần nọ, tôi đang ngồi coi hàng thì có một anh chàng hiệp sĩ từ xa phi ngựa lao thẳng vào chợ làm cho đống hàng sành sứ của tôi đổ vỡ hết cả ra thành hàng nghìn mảnh lớn nhỏ ngổn ngang ở chợ. Tôi sợ hãi, ngồi ôm mặt khóc:

– Trời, khổ thân tôi thế này, còn mặt mũi nào mà nhìn chồng nữa?

Về nhà, tôi kể cho chồng nghe chuyện chẳng may ấy. Nghe xong chuyện, chồng tôi trách móc, rồi nói rằng đã hỏi được công việc phụ bếp trong cung cho tôi. Một hôm, trong cung vua tổ chức hôn lễ cho nhà vua, tò mò tôi cũng len vào đứng trước cửa ngõ vào. Khi đèn lần lượt được thắp sáng, cảnh đẹp lộng lẫy trong cung vua mới hiện lên hết. Tôi thấy vậy mà buồn tủi thay cho số phận của mình, tôi hối hận chỉ vì tính kiêu căng, ngông cuồng đã khiến mình trở nên như hôm nay. Bỗng nhiên nhà vua bước vào, lụa là châu báu đầy người, cổ đeo dây chuyền vàng. Nhà vua nhìn thấy tôi, bước tới tỏ ý muốn tôi nhảy cùng. Tôi sợ hãi lùi lại.

Tôi nhận ra đó là Vua chích chòe, liền giật tay lại nhưng chẳng ăn thua gì cả, vẫn bị người kéo vào tới giữa phòng làm dây buộc nồi đứt, hai cái nồi rơi xuống đất, súp và bánh mì vung ra khắp nền nhà. Khách khứa và những người đứng đó thấy cảnh tượng ấy đều bật cười và chêm pha những lời nhạo báng. Tôi vô cùng xấu hổ, giật mạnh một cái khỏi tay Vua chích choè, lao thẳng ra phía cửa để chạy trốn, nhưng mới tới được cầu thang lại bị một người đàn ông lôi lại, khi định thần lại được, nàng thấy người đó lại chính là Vua chích choè:

– Em đừng có sợ hãi, người hát rong sống chung với em trong căn lều lụp xụp chính là anh. C hính anh cũng là kỵ sĩ cho ngựa chạy đổ vỡ hết hàng sành sứ của em. Tất cả những việc đó chỉ nhằm uốn nắn tính kiêu ngạo của em.

Tôi nghe xong liền bật khóc:

– Em đã làm những điều sai trái, không xứng đáng là vợ của anh.

Nhưng chàng đã nói với tôi:

– Em đừng buồn nữa, những ngày cay đắng đã qua, giờ chúng ta hãy làm đám cưới.

Tôi nghe theo lời Vua chích chòe, vào thay quần áo. Toàn thể triều đình đều có mặt để chúc mừng.

Đóng vai nhân vật – Vua chích chòe

Tại một vương quốc có một cô công chúa xinh đẹp tuyệt trần, nhưng tính tình lại kiêu ngạo. Một lần, nhà vua cho mời các chàng trai ở khắp các nước xa gần tới mở tiệc linh đình để chọn phò mã. Các vị khách đứng theo thứ bậc, trên cùng là vua các nước rồi các công tước, các ông hoàng, các bá tước, các nam tước, cuối cùng là những người dòng dõi quý tộc. Ta vốn là quốc vương nước láng giềng nên cũng được mời tới.

Công chúa được dẫn đi xem mắt. Người nào nàng cũng tìm ra điểm để giễu cợt họ. Đến lượt ta, nàng liền chế giễu ta có cái cằm chẳng khác gì chim chích choè có mỏ. Từ đó trở đi, mọi người bắt đầu gọi ta là Vua chích choè. Sau khi bị nàng châm chọc, ta cảm thấy rất tức giận, và quyết định sẽ trị thói kiêu căng của nàng.

Nghe tin vua cha của nàng nổi cơn thịnh nộ và ban truyền, nếu có người ăn mày nào đi qua hoàng cung, ông sẽ gả công chúa cho người đấy. Ta liền cải trang thành một người hát rong, đi đến trước hoàng cung và cất tiếng hát. Một lúc sau, nhà vua cho gọi ta vào, hát cho vua và công chúa nghe. Xong, nhà vua bảo với ta:

– Ta rất thích tiếng hát của ngươi, vì vậy ta gả con gái ta cho ngươi.

Ta thấy công chúa van xin, nhưng vẫn không thể lay chuyển được nhà vua. Ông nói:

– Cha đã thề rằng sẽ gả con cho người ăn mày đầu tiên đi qua cung vua, cha muốn giữ lời thề đó.

Một vị linh mục được mời ngay tới để làm hôn lễ của công chúa và ta. Hôn lễ cử hành xong, vua cha nói với công chúa:

– Theo tục lệ, vợ một người hát rong không được ở lâu lại trong cung vua, giờ thì con phải theo chồng ra khỏi cung.

Công chúa dù rất buồn bã, nhưng vẫn phải đi theo ta. Tới một khu rừng lớn, công chúa liền hỏi:

– Rừng đẹp này của ai?

Ta trả lời:

– Rừng của Vua chích choè, nếu nàng lấy ông ta thì hẳn rừng đã là của nàng.

Công chúa tiếc nuối thốt lên:

– Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.

Một lúc sau tới một thảo nguyên, nàng lại hỏi:

– Thảo nguyên xanh đẹp của ai?

Ta đáp:

– Thảo nguyên của Vua chích choè.

Công chúa lại than thở:

– Tôi là cô gái thật đáng thương, đáng ra tôi nên lấy Vua chích chòe.

Rồi họ tới một thành phố lớn, công chúa hỏi tiếp:

– Thành phố mỹ lệ này của ai?

Ta đáp:

– Thành phố mỹ lệ của Vua chích choè.

Nàng bật khóc, than rằng:

– Tôi thật đáng thương, đáng lẽ ra tôi nên đồng ý lấy Vua chích chòe.

Ta nói:

– Tôi không hài lòng một chút nào, tại sao nàng lại cứ luôn luôn mong có người chồng khác, thế tôi không xứng đáng hay sao?

Công chúa không nói được gì nữa, mà chỉ lặng lẽ đi theo sau. Tới một túp lều, nàng hỏi ta:

Xem thêm:  Chứng minh nhận định: Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ đầy ánh sáng

– Trời ơi, nhà ai mà nhỏ, thảm thương thế này?

Ta liền trả lời:

– Nhà của chúng ta đó!

Nàng phải cúi người xuống mới bước vào trong được, rồi hỏi:

– Người hầu của anh đâu?

Ta nói với nàng:

– Người hầu nào? Muốn làm gì thì tự mình làm lấy. Giờ em hãy nhóm bếp nấu ăn đi, anh mệt lắm rồi.

Ta biết ngay rằng công chúa nào có biết nhóm bếp và nấu ăn, cuối cùng phải tự nhúng tay vào làm công việc mới xong. Sau bữa ăn, hai vợ chồng ta mệt mỏi ngủ thiếp đi. Ngày hôm sau, ta liền đánh thức dậy làm việc nhà. Cứ như vậy mấy ngày thì lương ăn dự trữ hết. Ta nói với công chúa:

– Mình ạ, chỉ ngồi ăn không kiếm được thêm gì cả cứ như thế này mãi chắc không được lâu, hay là em đan sọt bán.

Sau đó, ta vào rừng lấy tre nứa về, còn công chúa phải chẻ lạt đan sọt. Nhưng bàn tay của nàng bị cạnh sắc của tre nứa cửa rỉ máu. Ta thấy vậy, dù rất đau lòng, nhưng vẫn nói với nàng:

– Thế thì không được, có lẽ dệt vải hợp với em hơn.

Nàng ngồi tập quay sợi, nhưng rồi những ngón tay lại bị sợi cứa chảy máu. Ta lại bảo với công chúa:

articleads

– Em chẳng thể làm được việc gì, sống với em thật khổ. Giờ thì chắc ta phải xoay ra đi buôn nồi và bát đĩa. Em ngồi ở chợ và bán hàng.

Công chúa không mấy vui vẻ, nhưng vẫn phải đồng ý. Lúc đầu, công việc diễn ra khá suôn sẻ. Nhưng một hôm, nàng chạy về khóc lóc kể cho ra nghe chuyện nồi niêu, bát đĩa đã bị vỡ hết. Nghe xong chuyện, ta liền trách móc nàng:

– Đời thuở nhà ai bán sành sứ mà lại ngồi ngay đầu chợ chỗ người ta qua lại, khóc làm chi nữa. Anh thấy em chẳng làm gì cho đến đầu đến cuối. Lúc nãy, anh có đến cung vua hỏi xem nhà bếp có cần người phụ không, họ hứa sẽ nhận em vào làm và nuôi cơm.

Công chúa giờ đây đã là một chị phụ đầu bếp. Nàng đã bớt đi thói kiêu ngạo, và chịu khó làm ăn. Ta quyết định sẽ nói rõ mọi chuyện với nàng. Ta cho tổ chức tiệc linh đình. Khi nhìn thấy công chúa, ta bước tới tỏ ý muốn nàng nhảy cùng. Nàng liền giật tay lại tỏ ý từ chối, nhưng chẳng ăn thua gì cả, vẫn bị ta kéo vào tới giữa phòng làm dây buộc nồi đứt, hai cái nồi rơi xuống đất, súp và bánh mì vung ra khắp nền nhà. Khách khứa và những người đứng đó thấy cảnh tượng ấy đều bật cười và chêm pha những lời nhạo báng. Công chúa vô cùng xấu hổ, giật mạnh một cái khỏi tay ta, rồi lao thẳng ra phía cửa để chạy trốn. Ta chạy theo và nói với công chúa:

– Em đừng có sợ hãi, người hát rong sống chung với em trong căn lều lụp xụp chính là anh. Chính anh cũng là kỵ sĩ cho ngựa chạy đổ vỡ hết hàng sành sứ của em. Tất cả những việc đó chỉ nhằm uốn nắn tính kiêu ngạo của em.

Nàng nói:

– Em đã làm những điều sai trái, không xứng đáng là vợ của anh.

Ta liền an ủi nàng:

– Em đừng buồn nữa, những ngày cay đắng đã qua, giờ chúng ta hãy làm đám cưới.

Công chúa nghe theo lời ta, vào thay quần áo. Toàn thể triều đình đều có mặt để chúc mừng.

Đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích Em bé thông minh

Đóng vai nhân vật – Em bé

Một buổi trưa nọ, tôi và cha đang phải cày ruộng. Bất chợt, tôi thấy một người đàn ông ăn mặc sang trọng cưỡi ngựa đến, có lẽ là quan của nhà vua, ông bèn hỏi cha tôi:

– Này ông kia, trâu này một ngày cày được bao nhiêu đường?

Cha tôi nghe xong thì ngớ người. Tôi nghĩ bụng, ai đời lại đi hỏi câu kì lạ như vậy, chắc chắn là muốn trêu người khác rồi, tôi liền hỏi lại:

– Vậy xin quan trả lời con ngựa kia một ngày đi được bao nhiêu bước,thì tôi sẽ nói cho quan biết con trâu đi được bao nhiêu đường?

Quan lúng túng không biết trả lời, rồi quan bỗng hỏi tên hai cha con, tôi cũng không nghĩ nhiều mà khai báo.

Mấy tuần sau, làng tôi nhận được chiếu vua, vua ban cho làng ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, năm sau làng phải nuôi cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, thiếu con nào thì sẽ bị phạt. Mọi người đều biết chuyến này lành ít dữ nhiều, được vua quan tâm thì tốt nhưng ai lại làm được trâu đực đẻ con? Cái khó ló cái khôn, tôi chợt nảy ra một kế. Tôi nói với cha:

– Cha cứ bảo cả làng lấy hai con trâu và hai thúng gạo mà ăn, còn lại thì bán đi để hai cha con ta lên kinh thành.

Cha và mọi người lúc đầu còn lo lắng nhưng nghe tôi trấn an, còn làm giấy cam đoan với làng thì yên tâm hơn.

Lên đến kinh vua, nhân lúc lính canh không để ý, tôi lẻn vào sân rồng khóc ầm lên làm nhà vua đang chầu triều phải dừng lại, điệu tôi vào trong. Vua hỏi:

– Thằng bé kia, tại sao lại đến đây mà khóc?

Tôi mới ấm ức phân bua:

– Mẹ con chết sớm mà cha không chịu đẻ em bé cho con chơi, con buồn lắm. Kính vua ra lệnh bắt cha con phải đẻ em bé cho con…

Cả triều đình cười rộ lên, vua tủm tỉm giải thích:

– Cha mày là giống đực, làm sao mà đẻ con được?

Tôi nhanh nhảu đáp lại:

– Vậy sao vua lại bắt làng con làm trâu đực đẻ con?

Vua nhớ ra, cười nói:

– Cái đấy là thử, làng ngươi phải biết thịt trâu mà ăn chứ!

– Làng chúng con nhận được trâu và gạo liền biết đó là lộc vua ban đã làm cỗ ăn mừng rồi.

Hôm sau, tôi và cha đang ăn cơm, bỗng có người của vua mang một con chim sẻ bắt tôi phải dọn ba mâm cỗ, tôi biết ngài là vua lại thử mình liền đưa cho anh lính cây kim nhờ vua rèn thành một con dao để xẻ thịt chim. Cha con tôi được ban thưởng hậu hĩnh.

Một hôm, tôi đang ở nhà chơi với bạn, có sứ thần mang một cái vỏ ốc rất dài bị rỗng hai đầu, ông nhờ tôi dùng sợi chỉ mảnh xuyên qua vỏ ốc. Tôi liền hát:

“Tang tính tang! Tính tình tang! Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng Bên thời lấy giấy mà bưng, Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang Tang tình tang…”

Mãi về sau khi đã thành trạng nguyên, tôi mới hiểu được, sự nhanh trí lần đó của mình đã cứu nước khỏi giặc ngoại xâm.

Đóng vai nhân vật – Người cha

Tôi là một người nông dân hiền lành. Vợ mất sớm, một mình nuôi con. Hai cha con sống cùng nhau bình yên ở một ngôi làng nọ. Một hôm, cha con tôi đang cày bừa cho vụ mùa mới thì thấy có một viên quan từ đâu tới. Khi đến gần, viên quan ấy mới cất tiếng hỏi:

– Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?

Tôi lúng túng, chưa biết trả lời sao thì thằng bé đã nhanh miệng hỏi lại:

– Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được mấy bước tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.

Viên quan nghe hỏi lại như thế thì lộ ra vẻ sửng sốt. Một thời gian sau, nhà vua sai ban cho làng tôi ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.

Nhận lệnh vua, cả làng đều lo lắng. Khi trở về nhà, thằng bé liền nói với tôi:

– Chả mấy khi được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng làm thịt hai trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho bố con ta trẩy kinh lo việc đó.

Tôi tỏ ý nghi ngờ, nói với thằng bé:

– Lệnh vua ban như thế, sao dân làng dám cãi lại. Con đừng nghĩ như vậy mà rồi gặp họa.

Thằng bé vẫn kiên quyết, nói đã nghĩ ra cách rồi. Hôm sau, tôi dậy sớm, đi ra đình để nói với dân làng. Cả làng nghe nói ban đầu vô cùng ngờ vực, bắt cha con tôi phải làm giấy cam đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.

Còn tôi và thằng bé khăn gói tìm đường tiến kinh. Đến hoàng cung, thằng bé bảo tôi đứng ở ngoài, còn nó thì lẻn vào sân rồng khóc um lên. Tôi lấy làm lo lắng lắm, nhưng chỉ biết đứng chờ bên ngoài. Sau khi ra ngoài, nghe thằng bé kể lại tôi mới rõ mọi chuyện. Sau khi vào trong, nhà vua đã hỏi thằng bé:

– Thằng bé kia, ngươi có việc gì oan ức, sao phải tới đây mà khóc làm ầm ĩ cả hoàng cũng vậy?

Nó bình tĩnh trả lời:

– Tâu đức vua con đá mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.

Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười. Vua phán:

– Muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố, chứ bố ngươi là giống đực, làm sao mà đẻ được!

Nó nói tiếp:

– Thế sao vua lại bắt làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp lên vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ!

Vua cười bảo:

– Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à?

Thằng bé hớn hở đáp:

– Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.

Nhà vua tỏ ra hài lòng lắm, liền ban thưởng cho thằng bé, rồi cho người đưa hai cha con tôi về quán trọ. Hôm sau, hai cha con tôi đang ngồi ăn ở quán trọ. Bỗng có sứ nhà vua mang tới cho một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Nhanh chóng suy nghĩ, thằng bé liền bảo tôi lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:

– Phiền ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.

Lập tức, vua cho gọi cả hai cha con tôi vào, ban thưởng rất hậu. Bấy giờ, có nước láng giềng lúc nào cũng lăm le xâm lược đất nước ta. Họ cử viên viên sứ giả sang thăm dò xem nước ta có nhân tài nào không. Viên sứ giả đến mang theo một con ốc vặn dài, rỗng hai đầu và một sợi chỉ mảnh, đố các quan trong triều làm thế nào để xâu được sợi chỉ qua ruột ốc. Các quan làm đủ mọi cách: người thì dùng miệng hút, người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để dễ xâu. Nhưng tất cả đều vô hiệu. Vua bèn mời sứ giả ở lại cùng nghỉ ngơi vài ngày, kéo dài thời gian cho người đi hỏi ý kiến con trai tôi. Lúc đó, tôi đang cặm cụi trong bếp. Còn thằng bé thì đang chơi ngoài sân cùng lũ bạn. Nghe chuyện, nó chỉ liền hát một câu:

“Tang tính tang! Tính tình tang Bắt con kiến càng, buộc chỉ ngang lưng Bên thời lấy giấy mà bưng, Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang. Tang tình tang! Tính tình tang!”

Viên quan hiểu ra, mừng rỡ quay về bẩm báo lên nhà vua. Sau đó, nhà vua liền cho người đến đón hai cha con tôi vào cung. Thằng bé được phong làm trạng nguyên, còn sai người xây dinh thự ngay trong hoàng cung để tiện hỏi thăm.

……… Mời tham khảo chi tiết tại file tại bên dưới ……..

Rate this post

KevinNguyen

Kevin Nguyễn - Người quản trị nội dung web là một chuyên gia sáng tạo và chuyên nghiệp trong việc quản lý, phát triển và duy trì nội dung website. Với khả năng phân tích và đánh giá thông tin chính xác, anh/chị đảm bảo cung cấp thông tin hữu ích và đáng tin cậy cho cộng đồng.