10 bài Cảm nhận về nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ hay nhất

Chào mừng bạn đến với pgdgiolinhqt.edu.vn trong bài viết về Cam nhan ve nhan vat mi trong truyen ngan vo chong a phu chúng tôi sẽ chia sẻ kinh nghiệm chuyên sâu của mình cung cấp kiến thức chuyên sâu dành cho bạn.

Cảm nhận về nhân vật Mị để thấy được vẻ đẹp tâm hồn Mị, sức sống mãnh liệt và khát khao tự do của nhân vật Mị. Sau đây là nội dung chi tiết các bài cảm nhận nhân vật Mị hay nhất đã được Hoatieu tổng hợp, xin chia sẻ đến các bạn.

1. Dàn ý cảm nhận về nhân vật Mị

a) Mở bài

– Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm

+ Tô Hoài là nhà văn hiện thực nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, để lại nhiều những tác phẩm có giá trị nhân văn, phản ánh hiện thực xã hội một cách khách quan và nhiều xúc cảm, đau đớn, xót xa, thương cảm, yêu thương,…

+ Vợ chồng A Phủ được trích trong tập Tây Bắc là câu chuyện tiêu biểu và mang nhiều giá trị tư tưởng lớn.

– Giới thiệu nhân vật Mị : Mị là nhân vật nổi bật nhất của truyện đại diện cho vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất con người Tây Bắc.

b) Thân bài: Phân tích vẻ đẹp tâm hồn Mị

* Luận điểm 1: Mị là một cô gái có ngoại hình đẹp, tài hoa

– Mị là một cô gái trẻ, đẹp

– Có tài thổi sáo: “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”

– “Trai đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị”, “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”.

– Chăm chỉ, cần mẫn trong công việc

* Luận điểm 2: Mị có những phẩm chất tốt đẹp

– Có ý thức đấu tranh: “Bố đừng bán con cho nhà giàu…”

– Hiếu thảo: sẵn sàng làm nương ngô trả nợ cho bố mẹ, chấp nhận số kiếp làm con dâu gán nợ, nhiều lần muốn chết nhưng không thành vì nghĩ thương cha mẹ.

– Yêu đời và yêu tự do: khao khát được đi chơi xuân, được thổi sáo, thả hồn trong tiếng sáo bay bổng.

– Luận điểm 3: Khao khát sống, sức sống tiềm tàng mạnh mẽ

– Trong đêm tình mùa xuân:

+ Mị nghe tiếng sáo và những âm thanh trong không gian xung quanh

+ Nhẩm thầm lời bài hát

+ Mị uống rượu để quên đi nỗi tủi nhục của mình

+ Tâm hồn Mị hồi sinh và kí ức sống dậy: những kỉ niệm tuổi trẻ, khát khao yêu thương trong Mị ùa về và Mị ý thức sâu sắc về thân phận tủi nhục, cay đắng.

+ Mị muốn được đi chơi, Mị sửa soạn đi chơi

+ A Sử trói đứng Mị trong đêm tối.

-> A Sử đã trói Mị, trói thể xác của Mị nhưng không thể trói được tâm hồn Mị.

– Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ:

+ Lúc đầu, Mị dửng dưng với A Phủ

+ Nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ: thương A Phủ và thương cho mình, thấy nhà Pá Tra sao ác thế

+ Mị nảy ra ý định cắt dây cởi trói cho A Phủ, nhưng rồi Mị sợ

+ Mị quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ và hai người chạy trốn khỏi Hồng Ngài.

-> Lòng ham sống mãnh liệt, Mị đã sống lại một cách hoàn toàn cả về tâm hồn lẫn thể xác.

=> Trong Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.

* Luận điểm 4: Sức phản kháng mãnh liệt

– Sự xuất hiện của “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ đã làm tan chảy lớp băng vô cảm trong Mị

– Nghĩ đến mình ngày trước, Mị thấy căm giận nhà thống lý Pá Tra, thấy bất bình, thấy xót xa cho một kiếp người nhưng còn chẳng bằng con bò bị mất, phải chết vì một con bò => Nhận thức sự tương đồng trong số phận bất hạnh.

– Mị đấu tranh tư tưởng rồi quyết định cứu người dù đã nghĩ đến hậu quả.

– Mị cởi trói cho A Phủ, thì thào một tiếng “Đi ngay…” => Lòng nhân ái đã chiến thắng nỗi sợ hãi.

– Mị đứng lặng trong bóng tối suy tư rồi vùng chạy theo A Phủ: “Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất” -> hành động tự giải thoát khỏi sợi dây trói vô hình của thần quyền.

=> Sự phản kháng mạnh mẽ, ý thức mưu cầu tự do, lòng ham sống, ham tự do mãnh liệt đang cháy ngùn ngụt trong lòng của người đàn bà nhiều năm vốn đã chai lì, lạnh giá.

=> Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.

c) Kết bài

– Nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn Mị.

2. Cảm nhận về nhân vật Mị trong đoạn trích Lần lần, mấy năm qua đến bao giờ chết thì thôi

Trong các tác phẩm văn học Việt Nam cũng như văn học thế giới, hình tượng người phụ nữ trong mỗi tác phẩm lại mang một câu chuyện riêng và những giá trị khác biệt. Nếu như số phận của nàng Kiều là sự tài hoa và bạc mệnh thì Hồ Xuân Hương tuy sắc sảo mặn mà nhưng vẫn cô đơn lạnh lẽo còn cuộc đời chị Dậu là một đêm tối dày đặc không tìm thấy lối thoát. Nhưng đến với Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài ta gặp được nhân vật Mị mang một sức sống mãnh liệt, lòng khát khao được sống, Mị đã can đảm và tìm thấy sự sống cho chính mình.

Mị trong “Vợ chồng A Phủ” là cô gái vừa xinh đẹp như bông hoa rừng lại vừa tài hoa, hiếu thảo. Với những phẩm chất tốt đẹp mà Mị có, nếu sống trong một xã hội bình thường chắc chắn Mị sẽ được sống những tháng ngày an yên, hạnh phúc.

Nhưng không, vì nghèo, vì món nợ ngày xưa bố mẹ Mị vay nhà thống lí Pá Tra cùng với phong tục hôn nhân kì lạ của người Mông mà Mị trở thành “con dâu gạt nợ” nhà thống lí, vợ của A Sử. Trên danh nghĩa là dâu, nhưng thực tế Mị lại là con ở không công nhà thống lí. Tại ngôi nhà quyền lực mà u ám này, Mị bị bóc lột sức lao động, bị đầu độc tâm hồn bởi thần quyền và cường quyền, dần dần Mị đã đánh mất chính mình, cô gái xinh đẹp yêu đời năm nào phải ngậm ngùi sống kiếp người đội lốt “con rùa nuôi trong xó cửa”.

Về làm vợ A Sử, con dâu thống lí Pá Tra ít lâu, Mị đã quen dần với cái khổ, từ một cô gái tràn đầy sức sống, khao khát yêu thương bỗng chai sạn tâm hồn, mất nhận thức về thời gian, không gian, cả nỗi khổ mà mình đang gánh chịu. Ở đoạn văn thứ nhất, Tô Hoài đưa người đọc vào không gian mà cô Mị đang sống: khổ cực, tăm tối. Ngay từ những dòng văn đầu, nhà văn đã để lại ấn tượng về khoảng thời gian mà Mị đã sống trong nhà thống lí: “Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau”, chỉ mấy năm thôi nhưng chắc là lâu lắm. Đó là quãng thời gian mà Mị nếm trải khổ đau, nếm trải sự xói mòn trong tâm hồn của mình. “Mấy năm” là bao nhiêu năm? Bao nhiêu năm đã chầm chậm trôi qua mà Mị không hề nhớ rõ bởi bấy giờ Mị có còn biết khổ đau, bất hạnh, cơ cực là gì nữa đâu? Cái khoảng thời gian không xác định ấy tưởng chỉ mang tính chất giới thiệu thôi mà ngẫm lại đớn đau khó tả. Hóa ra Mị đã về làm dâu nhà thống lí “Mấy năm” rồi, “bố Mị” – người thân duy nhất của Mị cũng đã bỏ Mị mà đi, còn Mị thì đương sống trong tình trạng sống không ra sống mà chết thì Mị chưa nghĩ đến. Nếu ngày trước Mị đã từng có ý định ăn lá ngón tự tử vì không chịu đựng được nỗi khổ đau thì giờ phút này “Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”. Lá ngón – một loài lá độc mọc dại ở miền núi cao Tây Bắc – khi đi vào văn chương lại trở thành một chi tiết nghệ thuật nói lên thật nhiều thân phận con người.

Phải khổ đau, uất ức lắm người ta mới tìm đến lá ngón để mưu sinh. Lúc trước Mị định ăn lá ngón để chết, để khỏi phải đối mặt với những cơ khổ và bạo tàn nhà thống lí Pá Tra. Khi Mị muốn chết là lúc khát vọng được sống đúng nghĩa dâng trào. Còn bây giờ… “Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”, nghĩa là Mị chấp nhận khổ đau, cam chịu cảnh sống cực hơn là chết nhà thống lí. Mị không muốn chết bởi Mị đã chai lì, bởi Mị đã “quen khổ rồi”. Môi trường độc địa ấy đã ngấm vào trong Mị, cái khổ đã đồng hóa Mị, khiến Mị quen dần và không một biểu hiện phản kháng. Ngay cả Mị cũng “tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, câu văn chất chứa nỗi xót xa cùng cực của Tô Hoài dành cho nhân vật của mình. Thân phận của Mị chẳng khác nào thân phận “trâu ngựa”.

Con trâu con ngựa suốt tháng suốt năm phải làm việc lam lũ trên nương, khoảnh khắc nghỉ chân của nó thật ngắn ngủi. Mị cũng thế, từ hồi về nhà thống lí Pá Tra làm dâu, quanh năm Mị quanh quẩn trên nương “bẻ bắp”, “hái củi”, “bung ngô”, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Vậy có khác nào con ngựa, con trâu? Con ngựa “chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm” chứ đâu than khổ than cực?! Cô Mị cũng vậy, Mị tất bật với bao nhiêu công việc không lúc nào ngơi tay mà Mị đâu có lời nào vãn than. “Quen khổ”, cái thói quen ấy mới thật khắc khoải làm sao. Đoạn văn thứ nhất đã mở ra thân phận cam chịu, tủi nhục của Mị. Người đàn bà ấy đã gồng gánh gian lao đi qua cơ cực mỏi mòn mà chẳng biết nặng là gì. Rõ là cái xã hội ấy thật bất nhơn, nó tước đoạt đi quyền hạnh phúc, đồng thời cắt đứt mạch sống của người con gái đương phơi phới xuân thì.

Bằng giọng văn mềm mại cùng lối kể chuyện hấp dẫn, Tô Hoài đã đưa người đọc vào thế giới Hồng Ngài xinh đẹp mà u buồn, ở đó có bóng dáng cô Mị sống lầm lũi, bĩ cực đang lao đao đi tìm lẽ sống cho riêng mình. Nhà văn đã phát huy biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế để từ đó nhân vật của ông sống dậy, vùng vẫy, run rẩy phập phồng trên trang văn dày đặt ngôn từ. Trên hết vẫn là tư tưởng nhân đạo cao quý mà Tô Hoài đã gửi gắm.

3. Cảm nhận về nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ ngắn

ô Hoài có rất nhiều tác phẩm viết về con người và vùng đất Tây Bắc, trong đó Vợ chồng A Phủ là một trong những truyện ngắn tiêu biểu nhất. Vợ chồng A Phủ viết về đôi vợ chồng người H’Mông, về cuộc sống và số phận con người đất Hồng Ngài dưới ách thống trị của cường quyền và thần quyền. Trong tác phẩm này, nhà văn Tô Hoài đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Mị- người phụ nữ bất hạnh bị buộc trở thành người con dâu trừ nợ nhà thống lí.

Theo chân nhà văn bước vào tác phẩm, ta bước vào cuộc sống của Mi – một người con gái của dân tộc H’Mông nơi đây. Mị trước khi về làm dâu nhà thống lý Pá Tra có một cuộc sống rất yên bình như những người con gái khác. Mị xinh đẹp, có tài thổi sáo được nhiều chàng trai ngưỡng mộ. Mị còn là một người con hiếu thảo, một cô gái giỏi lao động.

Nhà Mị nghèo, cha mẹ ngày xưa lấy nhau phải vay bạc của nhà thống lý Pá Tra. Đến khi mẹ cô chết, nợ vẫn chưa trả được, vậy nên, Mị đã thay cha mẹ gánh việc nương rẫy để trả nợ cho nhà thống lý. Cô quả là một người con rất hiếu thảo!

Thế nhưng, mỗi năm “phải trả một nương ngô cho người ta” mà bao nhiêu năm vẫn chưa hết nợ, thống lí Pá Tra đã bảo với cha Mị rằng:”cho tao đứa con gái này về làm dâu, thì tao xoá hết nợ cho” và rồi xảy ra sự việc A Sử đến giả làm người yêu Mị bắt Mị về nhà hắn. Mị trở thành “con dâu gạt nợ” của nhà thống lí và bắt đầu những chuỗi ngày khổ cực, đày đọa cả thể xác và tinh thần.

Sau đêm hôm ấy, Mị chính thức trở thành con dâu nhà thống lý Pá Tra. Mang danh là con dâu nhà giàu thế nhưng cuộc sống của Mị lại chẳng khác gì kẻ tôi tớ, cả năm cả tháng Mị phải làm quần quật như con trâu con ngựa trong nhà. Mị phải làm việc không ngơi tay “Tết xong lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tưới sợi”, “con ngựa con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả ngày lẫn đêm”.

Mị sống trong nhà thống lý bị tước đoạt sự tự do, tước đoạt của niềm vui, tình yêu và hạnh phúc của đời Mị. Nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần đã khiến Mị trở nên tê liệt, trở nên chai lì cảm xúc, trở thành một cái xác không hồn “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”, “Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. Đến bao giờ chết thì thôi”.

Cực khổ là thế, bị đàn áp, áp bức đến tê liệt là thế, những tưởng tất cả khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Mị đã bị vùi dập, dập tắt hết. Nhưng không, cái sức sống ấy nó ẩn mình tiềm tàng trong con người Mị và chợt bùng cháy lên thật mạnh mẽ trong đêm tình mùa xuân và trong đêm Mị giải cứu A Phủ.

Khi tiếng sáo gọi bạn trong đêm hội mùa xuân Hồng Ngài cất lên cùng với tiếng người cười nói, tiếng kèn, tiếng pao, lòng Mị đã dập dìu. Mị uống rượu để được say, để được quên đi nhưng “lòng Mị đang sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Tiếng sáo ấy như đánh thức cái khát khao tự do đang ngủ vùi trong sâu thẳm Mị sống dậy để Mị chợt thấy “phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước”. Mị nhận ra rằng “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”.

Đây là khát vọng sống và sự phản kháng đầu tiên của Mị từ khi bước chân vào nhà thống lý. Mị muốn được tự do, muốn được giải thoát “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”.

Khát vọng sống, khát vọng tự do cứ theo tiếng sáo dập dìu bay đến bên Mị “trong đầu Mị đang dập dờn tiếng sáo”, và Mị muốn được ra ngoài, muốn được đi chơi như “bao nhiêu người có chồng” khác. Vậy nên, “Mị quấn tóc lại. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách” để chuẩn bị đi chơi.

Ý thức cuộc sống đã trở về với Mị rồi! Khao khát sống, tự do, vui tươi bùng cháy mạnh mẽ trong lòng Mị. Dù bị A Sử bắt đứng trói cột không cho đi chơi, nhưng tâm hồn cô đã thoát lên, đi theo những tiếng sáo gọi bạn rồi “Trong bóng tối, Mị đứng im, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, mị nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”.

Thế nhưng, sau đêm tình đó, Mị lại trở về những ngày trước, lại sống vô hồn, lầm lũi như “con rùa nuôi trong xó cửa”. Liệu có ai nghĩ rằng Mị sẽ có ngày vùng lên mà thoát khỏi sự áp bức, thoát khỏi địa ngục trần gian này chăng?

Sự kiện A Phủ đánh mất bò, bị đánh rồi bị trói đứng vào cột làm xôn xao cả bản. Thế nhưng, điều đó dường như chẳng làm ảnh hưởng gì tới Mi và cuộc sống của cô. Cô vẫn lầm lũi như thế, “thản nhiên thổi lửa, hơ tay” như mọi ngày. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng chết ở đấy, cũng thế thôi”. Mị không có xúc cảm, không còn thương xót cho một con người đau khổ, đáng thương như thế bởi cảm xúc trong cô đã chai lì, đã tê liệt rồi!

Thế nhưng, cảm xúc trong Mị chợt ùa về chỉ khi Mị nhìn thấy “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ. Mị chợt nhớ về đêm tình năm trước, khi cô cũng bị A Sử bắt trói đứng như thế “nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”. Một cảm giác thương xót chợt len lỏi cháy lên trong lòng cô. Mị thương cảm cho số phận của A Phủ, cô đồng cảm bởi cô biết sự đau đớn mà A Phủ đang phải trải qua.

Xem thêm:  Nghị luận xã hội 200 chữ bàn về sự chân thành - Thủ thuật

Mị thương cảm cho A Phủ, cô miên man trong dòng nghĩ ngợi, cô nghĩ A Phủ biết đâu có thể trốn được và thống lí Pá Tra sẽ cho rằng cô là người thả A Phủ đi rồi “Mị liền phải trói thay vào đấy. Mị chết trên cái cọc ấy”. Nỗi sợ hãi bùng lên trong lòng cô, thế nhưng, sự thương xót và đồng cảm đã chiến thắng sự sợ hãi, cô “rón rén bước lại”, “rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”, “gỡ hết dây trói trên người A Phủ” và “thì thào được một tiếng: Đi đi”. Mị đã giải thoát cho A Phủ, cho một con người bị áp bức như Mị được trở lại với tự do.

Thế nhưng, khi nghe tiếng bước chân của A Phủ “quật sức vùng lên, chạy”, “mị đứng lặng trong bóng tối”. Khát vọng sống chợt bùng lên mạnh mẽ trong lòng cô, thôi thúc bước chân cô chạy “băng đi” theo A Phủ. Mị sợ cái chết, Mị muốn được sống, Mị muốn được tự do và hạnh phúc, vậy nên Mị đã băng theo A Phủ và “thở trong hơi gió thốc lạnh buốt: A Phủ cho … ở đây chết mất”.

Mị đã chạy thoát khỏi địa ngục trần gian giam cầm thể xác và tâm hồn Mị, thoát khỏi những áp bức nô lệ của những kẻ cầm quyền. Hai con người đau khổ dìu nhau bước đi trong bóng tối, băng qua rừng trong đêm lạnh. Hành động cắt dây trói giải thoát cho A Phủ của Mị, cũng là hành động cắt dây trói giải thoát cho chính bản thân mình của cô, thoát khỏi kiếp sống đày đọa, khổ cực. Chính khát vọng sống, tự do đã giúp cô làm được điều đó.

Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Mị, đặc biệt là khi miêu tả những diễn biến tâm lý phức tạp của cô. Ông đã dẫn dắt cho người đọc thấy tâm lý của Mị từ những ngày cô còn được tự do đến khi bị đày đọa trong nhà thống lý rồi đến khi vùng lên giải thoát cho bản thân. Tất cả đều được miêu tả rất xuất sắc. Ông còn tái hiện được những phong tục của con người ở vùng núi Tây Bắc rất chân thực.

4. Cảm nhận về nhân vật Mị ngắn gọn

Cảm nhận về nhân vật Mị
Cảm nhận về nhân vật Mị

Trong văn xuôi hiện đại Việt Nam ở thế kỷ XX thì đề tài miền núi khá là được chú ý. Dù chủ đề cũ nhưng nhà văn luôn có cách khai thác vấn đề rất sâu, làm bật lên hình ảnh nhân vật. Mỗi nhà văn sẽ có những cái nhìn khác nhau và Tô Hoài đã thể hiện sự đồng cảm trước thân phận khổ đau của người dân miền núi, đặc biệt là phụ nữ. Điển hình trong tác phẩm này là Mị của Tô Hoài sẽ khác với những nhà văn khác, đó là một điểm riêng ở Tô Hoài.

Trong Vợ Chồng A Phủ Mị được khắc họa lên là một cô gái có số phận éo le, tủi phận nhưng phẩm chất đẹp vô cùng. Cô gái đẹp người Mèo này sống trong thời đại phong kiến đầy rẫy những phong tục vô lí, áp bức. Bố mẹ Mị khất nợ nên Mị chính là người bị bắt để trả món nợ này, chủ nợ là Thống lí Pá Tra đòi bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây bao đau thương, tủi nhục của cô gái này bắt đầu xảy ra, mang danh là về làm dâu nhưng thực chất là nô lệ cho nhà thống lí. Mị trở thành một cô gái vô cảm trước mọi thứ, tê liệt ý thức, sống mà như không sống chính vì những thói áp đặt, vũ phu đánh đập, tra tấn tàn bạo khiến Mị đau khổ không nói nên lời, cuộc sống từng phút giây như đày đọa.

Từ khi cuộc sống của Mị bị cuồng chân trong nhà Thống Lí thì những giấc mơ của Mị tan biến, phai mờ dần trong tâm trí và cô ngày ngày phục vụ không công còn bị đối xử tàn ác. Khi làm dâu nhà giàu những tưởng Mị sẽ có một cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy nhưng không phải, tất cả chỉ là vỏ bọc bên ngoài. Mị ngày qua ngày lầm lũi trong bếp, nơi xó cửa làm việc quần quật từ sáng đến khuya. Năm này qua năm khác Mị chỉ quanh quẩn trong căn phòng mờ tối, một chút ánh sáng lọt qua khe cửa sổ bé tí chẳng biết là sương hay khói.

Dù rằng bên ngoài thấy Mị mặc kệ trước mọi thứ nhưng sâu thẳm trong tâm hồn của cô gái trẻ này vẫn luôn âm ỉ một khát khao cháy bỏng được tự do, được sống là chính mình, cuộc sống của riêng cô. Lòng ước muốn ấy nó như lớp lửa nhỏ âm ỉ trong lớp tro tàn kia, chỉ cần một làn gió thổi qua sẽ khiến nó bùng thật mạnh mẽ. Chính vì bị ép vào đường cùng, thương và hiếu thảo với cha mẹ nên Mị phải hi sinh bản thân để cứu gia đình nên cô đành sống khiếp người đen tối, đau khổ.

Đêm mùa xuân năm ấy lại đến rộn ràng, náo nức khắp đất trời với tiếng nhảy múa, ca hát, thổi sáo hòa trong bản giao hưởng thiên nhiên. Lúc này ở trong nhà nghe vọng vào, Mị không còn lầm lì trong cảm xúc chai sạn nữa, cảm xúc được đánh thức trở lại. Tiếng sáo vang lên trong đầu Mị những giai điệu vui tươi, Mị nhẩm bài hát nhớ về những tháng ngày đẹp đẽ đã từng có. Không chịu đựng Mị lấy rượu uống ừng ực để quên đi bao sầu đau, tủi hờn.

Khi đó Mị như thấy mình trẻ lại, Mị vui lắm hừng hực sức sống trở lại và Mị vùng lên sửa soạn đi chơi. Thế nhưng mọi thứ đang dang dở thì A Sử phát hiện và trói Mị vào cột. Lúc này cơn đau từ tâm hồn đến thể xác trỗi dậy. Mị khao khát được đi chơi nhưng A Sử đã dập tắt, bóp chết khát khao mong manh kia.

Một lần nữa sức sống trong Mị trỗi dậy mãnh liệt khi nhìn thấy A Phủ – một tôi tớ cho Thống Lí đang bị trói. Nước mắt của A Phủ rơi xuống thức tỉnh Mị phải vùng dậy đòi lấy quyền được sống, được yêu thương, tự do cho chính mình. Thế là Mị đã cùng A Phủ trốn thoát tìm lấy cuộc sống tự do của riêng họ.

Tô Hoài đã rất tài tình trong nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật Mị. Chính ngòi bút tinh tường ấy đã dẫn lối người đọc len lỏi vào trong tâm hồn, cảm xúc của Mị, nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của cô gái này.

5. Cảm nhận về sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị

Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, ông là một cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam. Tô Hoài có vồn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình, lay động lòng người..

“Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Truyện nói về cuộc sống tối tăm, khổ nhục và quá trình tự vùng lên đấu tranh kẻ thù, xây dựng lại cuộc đời của người dân miền núi cao Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mỵ có sức ám ảnh đối với người đọc với sức sống tiềm tang trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.

Mị là một cô gái xinh đẹp, tài hoa, hồn nhiên yêu đời, là mơ ước của bao trai làng. Mị còn là một cô gái chăm chỉ, hiếu thảo và có lòng tự trọng. Cô đã xin bố cô cho cô “con nay đã lớn, đã biết cuốc nương làm ngô giả nợ cho bố, xin bố đừng gả con cho nhà giàu”. Mị xứng đáng được sống hạnh phúc nhưng Mị lại phải sống đọa đày trong khổ đau, tủi nhục.

Ngày trước cha mẹ Mị phải vay tiền của nhà thống lí để làm đám cưới, cho tới khi Mị ra đời, mẹ Mị mất, Mị sắp đến tuổi lấy chồng, món nợ vẫn không trả được, dù mỗi năm gia đinhg Mị đã nộp một nương ngô cho thông lí. Thống lí đế nói với bố của Mị “cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao sẽ xóa hết nợ cho”. Rồi Mị bị A Sử con trai thống lí bắt về làm vợ theo cướp dâu. Tô Hoài đã tố cáo chế độ cho vay nặng lãi, bóc lột người nhèo một cách dã man của bọn thống trị vùng Tây Bắc thời kì trước cách mạng tháng Tám.

Mị sống thầm lặng, lặng lẽ “mị ngày càng không nói, lùi lũi như con rùa nuoi trong xó cửa”. Mị bị biến thành một thứ công cụ lao động là nỗi cực nhục mà Mị phải chấp nhận. Nhưng Mị còn phải chịu đựng nỗi đau về tinh thần triền miên. Nhà văn miêu tả căn buồng của Mị ở trong nhà thống lí như một nhà tù “ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Mị bị đày ải bởi lao động khổ sai ở nhà thống lí nhưng đáng sợ hơn là sự đày đọa về tinh thần, nó làm cho Mị sống mà như đã chết.

Với sự cảm thông trân trọng, Tô Hoài đã phát hiện sức sống mạnh liệt tiềm tang trong con người Mị dẫn cô tới hành động phản kháng táo bạo, quyết liệt.

Cảnh tết đến xuân sang với nhiều hình ảnh, màu sắc rực rỡ của những chiếc váy hoa “phơi trên mỏm đá xòa như con bướm sặc sỡ”, tiếng cười đùa vui vẻ của đám trẻ trước sân nhà, đặc biệt là tiếng sáo rủ bạn đi chơi đã tác động mạnh mẽ đến tâm hôn Mị. Mị nghe “tiếng sáo ngoài đầu núi” vọng lại tha thiết, bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi.

Ngôn từ giản dị, mộc mạc của tiếng sáo hàm chứa lẽ sống tự do, phóng khoáng của con người. Tiếng sáp đánh thức đời sống ý thức, làm hồi sinh tâm hồn Mị, bừng lên sức sống tiềm ẩn trong Mị. “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu..cứ uống ực từng bát. Rồi say..” ngồi “nhìn mọi người nhảy đồng, người hát nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước”.

Rượu có thể làm cơ thể và đầu óc Mị say nhưng tâm hồn cô thì đã tỉnh lại sau bao tháng ngày câm nín bởi sự đày đọa khốn khổ. “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Tiếng sáo nhắc Mị nhớ lại một thời tươi đẹp, một thời tự do. Có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Để rồi, sau bữa cơm Tết, mọi người đi chơi thì Mị lại “từ từ bước vào buồng”, “ngồi xuống giường, trông ta cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng”. Bởi vì bị giam hãm lâu ngày, Mị đã thành thói quen.

Mị thấy mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi như bao người phụ nữ có chồng khác. Mị thấy mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi như bao người phụ nữ có chồng khác. Mị ý thức được tình cảm của mình. Ý nghĩ về cái chết là sự phản kháng hoàn cảnh. Nó chứng tỏ Mị đã trở lại chính mình. “Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường” nghe càng da diết, thôi thúc Mị bước tới hành động “xắn một miếng mở bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Khi tiếng sáo “rập rờn” trong đầu, Mị quyết định đi chơi, Mị sửa soạn đi chơi, Mị “quấn lại tóc” “với tay lấy cái váy hoa”, “rút thêm cái áo”. Hành động của Mị là hành động của một người tự do, theo tiếng gọi của lòng mình.

Giữa lúc khao khát tự do trong Mị đang sống dậy thì Mị bị A Sử trói đứng vào cột “không cúi không nghiêng đầu được nữa”. Lúc đó, Mị vẫn là người nửa tỉnh nửa mơ, hồn Mị vẫn lâng lâng theo tiếng sáo, những kí ức tươi đẹp thời thanh xuân khiến Mị “như không biết mình đang bị trói”. Khi Mị vùng bước đi, sợi dây trói nhắc Mị nhớ tới thân phận trong hiện tại. Mị thổn thức nghĩ “Mình không bằng con ngựa”, vì con ngựa còn được đứng gãi chân, nhai cỏ. Thực tại nghiệt ngã lại bóp chết khát vọng trong Mị. Cả đêm bị trói đứng như thế. Nín khóc Mị lại bồi hồi, có lúc lại nồng nàn thiết tha nhớ…

Sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong con người Mị không gì vùi dập được. Ngòi bút của tác giả lánh sâu vào những bí mật của đời sống nội tâm, phát hiện nét đẹp và nét riêng của tính cách nhân vật ngay cả lúc nhân vật đau khổ nhất. Tô Hoài đã cảm thông cho số phận của những con người phải sống trong sự đày đọa của áp bức thông trị. Nhà văn đã lên án và tố cáo sâu sắc một xã hội tàn bạo, xấu xa, nghiệt ngã như vậy. Qua đó, Tô Hoài còn ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, khát vọng sống mãnh liệt của nhân vật Mị.

6. Cảm nhận về nhân vật Mị

Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài (xuất bản năm 1953). Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thông qua số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi trước Cách mạng và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ. Tô Hoài đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Mị với diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp.

Nhân vật Mị mang đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người, đẹp nết, Mị được nhiều trai bản yêu mến, ước ao. Tuổi thanh xuân hứa hẹn với cô bao điều tốt lành, nhưng chỉ vì món nợ cha mẹ cô vay của tên thống lí Pá Tra từ ngày cưới, cho đến khi mẹ cô đã chết mà vẫn chưa trả được nên Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà hắn. Mị bị coi như một thứ đồ vật vô tri vô giác để tính ra tiền trừ vào số nợ. Những năm tháng Mị sống với cha con tên thống lí gian ác là chuỗi dài đau thương, khổ ải. Cô bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa.

Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu. Cô gái xinh đẹp, hồn nhiên, đa cảm thủa nào đường như đã chết, chỉ còn lại người đàn bà lúc nào cũng vậy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa của nhà thống tí. Mị sống âm thầm, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.

Đau khổ kéo dài khiến cho lòng Mị tưởng chừng nguội lạnh. Dường như mọi cảm xúc, khát khao đã bị dập tắt từ lâu. Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn sống âm thầm, mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị đày đọa kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham sống. Mùa xuân về, Mị lén uống rượu và lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…

Rõ ràng, bản chất đích thực đã trở lại với Mị. Tất cả mọi giác quan, cảm xúc tưởng như đã lụi tàn vì đau khổ đang sống dậy. Mị thấy mình còn trẻ lắm, mà còn trẻ thì phải được hưởng hạnh phúc. Vì thế nên bất chợt Mị muốn đi chơi. Nhưng khát vọng chính đáng đã bị hiện thực phũ phàng vùi dập. A Sử đánh Mị, trói Mị, Mị vẫn thả hồn lâng lâng theo tiếng sáo gọi bạn. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi tình yêu khơi lên niềm khao khát hạnh phúc trong lòng Mị. Phản ứng tự phát ban đầu của Mị không thể giải phóng được cuộc đời cô nhưng những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro tàn, có ngày nó sẽ bùng cháy dữ dội khi gặp cơn gió mạnh.

Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị đánh, mấy đêm đầu, Mị vẫn thản nhiên thức dậy sưởi lửa. Mị thản nhiên vì chuyện đánh người, trói người xảy ra thường xuyên ở nhà thống lí. Nhưng đêm nay, trông thấy dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ, Mị không cầm lòng được. Mị thương A Phủ cũng bị rơi vào vòng đọa đày, khốn khổ như mình. Cô liên tưởng tới bao kẻ tôi tớ khác trong nhà này đã bị cha con tên thống lí bạo tàn đối xử dã man. Có người chết đói, chết rét sau mấy ngày cùm trói. A Phủ kia cũng sẽ như vậy thôi và đến một ngày nào đó, Mị cũng thế.

Xem thêm:  Miêu tả hàng phượng vĩ và tiếng ve kêu vào một ngày hè - Văn 6 (8

Hơn bao giờ hết, ý thức về nỗi khổ, về thân phận trỗi dậy trong lòng Mị. Nếu cứ cúi đầu chấp nhận số phận có nghĩa là chấp nhận cái chết bi thảm. Từ hình ảnh đau thương của A Phủ trước mắt, Mị liên tưởng đến tương lai mù tối, bế tắc của mình. Chính điều đó đã làm sống lại trái tim tưởng chừng đã bị đau khổ làm cho chai đá của Mị. Cô thương người, thương thân. Giọt lệ bất lực và thống khổ của A Phủ như giọt nước cuối cùng làm tràn đầy bình nước, cảm thương số phận A Phủ, một chàng trai dũng cảm, khỏe mạnh sắp bị cướp đi mạng sống, Mị càng thương thân và càng căm thù cha con tên thống lí gấp bội. Cái thương cái ghét bùng lên, lấn át nỗi sợ, dẫn Mị đến hành động táo bạo ngoài ý thức: cắt dây trói cứu A Phủ.

Đây là hành động bộc phát xong nó là kết quả tất yếu của cả một quá trình bị dồn nén, bức xúc về mặt tinh thần bây giờ đã đến lúc giải thoát và đó cũng chính là biểu hiện tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng ẩn chứa trong con người Mị bấy lâu nay. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt đứt những dây trói vô hình đã cột chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Cô chạy theo A Phủ bởi cô ý thức được nỗi khổ và sự sống còn của mình : ở đây thì chết mất Mị chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, cô tự giải phóng mình khỏi nanh Vuốt cha con tên thống lí tàn bạo.

Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong hoàn cảnh đau thương, nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định không bạo lực đen tối nào có thể vùi dập được sức sống và khao khát tự do của con người ; đồng thời nhấn mạnh rằng, chỉ có sự tự vùng dậy của bản thân theo sự dẫn dắt của cách mạng mới giải phóng được con người ra khỏi kiếp ngựa trâu, nô lệ. Đó chính là giá trị nhân đạo to lớn của tác phẩm.

7. Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn Mị

Con người sinh ra vốn đã được tạo hóa ban tặng cho quyền được sống, được làm người và quyền được mưu cầu hạnh phúc. Ý thức được điều đó, khao khát được hòa mình vào cuộc sống, con người đã vượt qua mọi trở ngại khó khăn, thử thách để hướng tới một điều thật ý nghĩa: sự sống. Nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài cũng đã phần nào biểu hiện điều đó. Bằng sức sống mãnh liệt, lòng khát khao được sống, Mị đã can đảm và tìm thấy sự sống cho chính mình.

Mị là một cô gái xinh đẹp, chăm chỉ làm việc và có tài thổi sáo giỏi. Chính vì thế mà cô gái ấy là niềm khao khát, ước mơ của bao nhiêu chàng trai: “Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Có thể nói, cuộc sống của Mị đang trên đà đơm hoa kết trái, một cuộc sống mà ở tuổi của cô ai cũng phải ao ước. Thế nhưng bước ngoặt của cuộc đời Mị đã dần chuyển sang hướng khác khi cô trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Và người con gái đẹp ấy lại một lần nữa tỏ rõ tấm lòng hiếu thảo của một người con khi nghe lời cha, chấp nhận về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý.

Tiếng là con dâu nhà thống lý nhưng ai cũng thấy được cô con dâu chẳng khác gì kẻ tôi đòi, phải làm việc quần quật suốt ngày đêm. Hình ảnh Mị thật tội nghiệp như một “con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”, như “con trâu con ngựa nuôi trong chuồng, chỉ biết ăn cỏ, chỉ biết làm việc mà thôi”. Đối lập hoàn toàn với cha con nhà thống lý ăn chơi trác táng là hình ảnh cô Mị ngồi cạnh tàu ngựa, trước tảng đá, dù chẻ củi hay gánh nước từ dưới suối lên, lúc nào cũng cúi mặt buồn rười rượi. Sống trong nhà thống lý Pá Tra không phải là cô Mị trẻ trung, yêu đời như ngày xưa nữa. Chính thần quyền và cường quyền nhà thống lý đã giết chết tuổi thanh xuân, bóp nghẹt cuộc sống của Mị cả về thể xác lẫn tâm hồn. Lúc này, Mị không khác gì một cái xác không hồn vật vờ, làm việc như nữ nô, thành một kẻ hầu người hạ cho chồng mà có thể bị chồng đánh đập tùy hứng bất cứ lúc nào. Cuộc sống của Mị khép chặt trong căn buồng kín bưng, trông ra ngoài chỉ duy nhất có “một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.

Ý thức về cuộc sống của Mị dường như đã bị giai cấp phong kiến làm tê liệt. “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Điều này đã cho thấy con người nô lệ trong Mị vẫn còn sống, con con người thực của cô thì dường như đã chết. Mị không bày tỏ, không kêu than cũng không phản kháng gì, chỉ lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa và “chờ ngày chết rũ xương ở đây thôi”.

Thế nhưng, “ngoài đầu núi lấp ló, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi”. Ta tưởng chừng như cô Mị đã trở nên vô cảm vô hồn, chỉ biết chấp nhận kiếp sống đọa đày nhưng không phải. Chính tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân – biểu tượng của tình yêu và khát vọng sống – đã gợi dậy những sâu thẳm trong lòng Mị bấy lâu. “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát”. Cách uống rượu ấy như báo trước một cuộc nổi loạn mà chính bản thân Mị cũng chưa ý thức rõ: “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, còn Mị thì đang sống về ngày trước”. Chính những ngày tháng tuổi trẻ nghèo khó nhưng tự do, vui vẻ và hạnh phúc đã khiến cho lòng ham sống của Mị trỗi dậy: “Mị thấy phơi phơi trở lại”. “Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo” và “Mị muốn đi chơi”. Từ chuyển biến trong suy nghĩ, Mị đã có một hành động thật ý nghĩa” “Mị đến góc nhà, lấy ống mở, xắn một miếng bỏ vào đền cho thêm sáng” và “với tay lấy cái váy hoa vắt ở vách” để chuẩn bị đi chơi. Hành động này có nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn, soi rọi cuộc sống tối tăm triền miên của quá khứ, và giờ đây Mị muốn bức ra khỏi cuộc sống tối tăm ấy, đến với tiếng sáo và những âm thanh rộn rã ngoài kia để được sống là chính mình.

Vậy mà nghiệt ngã thay, khi Mị toan bước đi thì bị A Sử kéo lại, chẳng nói chẳng rằng liền trói Mị vào cột nhà. Và bây giờ Mị khóc, khóc cho cái oan trái của một kiếp người khao khát muốn sống, muốn yêu mà lại bị ghì chặt vào một cuộc sống “không bằng con ngựa”. Men rượu làm cho Mị say, Mị mơ màng giữa ý thức và thực tại cho nên cô định “vùng bước đi. Nhưng chân tay đau không cựa được. Mị không còn nghe thấy tiếng sáo nữa”. Chính thực tại đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Kết cục ấy nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát thì nhân vật không thể tự giải thoát cho mình, đồng thời nó cũng bắt đầu khơi dậy cho những cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật.

Ngọn lửa khao khát sống trong cô Mị thực sự bùng cháy khi tự tay cô cởi trói cho A Phủ. Chứng kiến cảnh A Phủ bị đánh đập dã man, và hình ảnh “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã khiến cho Mị chợt nhớ lại cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cái cột thế kia, cũng nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ mà không cách nào lau đi được. Chính từ đó đã làm trỗi dậy trong Mị tình thương những người cùng cảnh ngộ. Mị đã thấy được cái bất công phi lý, sự tàn ác của cha cn nhà thống lý và không muốn thấy thêm một cái chết oan ức, cho nên cô đã cởi trói cho A Phủ. Rõ ràng Mị đã suy nghĩ kỹ, đã lường trước những gì sẽ xảy ra. Cô đã sẵn sàng chịu trói và chịu chết thay cho A Phủ vì cô nghĩ rằng, chỉ có chết thì cô mới có thể được giải thoát khỏi kiếp sống tù đày, đớn đau nhục nhã này. Nhưng không phải. Khi thấy a Phủ chạy đi rồi, chạy đến một cuộc sống tự do, thì Mị bừng tỉnh hẳn. Mị không muốn chết nữa mà Mị muốn sống, phải sống cho nên “Mị vụt chạy ra” theo A Phủ. Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng giải thoát luôn cho chính mình.

Qua việc khắc họa nhân vật Mị, Tô Hoài cũng đã phần nào tố cáo chế độ thống trị của bọn chúa đất, địa chủ phong kiến, ca ngợi phẩm chất cao đẹp của những người nông dân miền núi hiền lành, chất phác. Họ biết yêu cái đẹp, trọng lẽ phải để rồi vượt lên tìm lại chính mình.

Sức sống của nhân vật Mị được Tô Hoài khắc họa hết sức tài tình, độc đáo. Từ một con người dường như đã bị mất hết sức sống, nhưng với một nghị lực phi thường, một lòng ham sống mãnh liệt, Mị đã tìm thấy cuộc sống cho bản thân mình và dám đấu tranh với những thử thách để rồi vượt qua. Thật vậy, Nguyễn Khải cũng đã từng triết lý: “Ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để vượt qua những ranh giới ấy”. Con đường vượt qua những ranh giới của nhân vật Mị phần nào đã chứng minh cho chân lý ấy.

8. Cảm nhận nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Cảm nhận nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân
Cảm nhận nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân

Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ trong chế độ thực dân, phong kiến. Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, tiêu biểu cho cuộc sống đau khổ, tủi nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng của đồng bào miền núi Tây Bắc.

Tô Hoài là một trong những tấm gương sáng về tinh thần lao động sáng tạo, về công phu rèn luyện tay nghề của một người viết văn xuôi ở Việt Nam. Ông đã có hơn nửa thế kỷ cầm bút. Ông đã được chủ tịch nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I -1996).

Nhà văn đã gởi đến chúng ta một khối lượng tác phẩm nhiều đến mức đáng khâm phục: hơn 100 quyển sách với nhiều thể loại khác nhau. Tuy nhiên những trang viết thực sự đạt chất lượng cao của cây bút này thể hiện ở ba mảng đề: đề tài miền núi Tây Bắc, đề tài vùng ven thành Hà Nội và các đề tài dành cho thiếu nhi.

Chỉ xét riêng về đề tài miền núi Tây Bắc, truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” trong tập truyện Tây Bắc (1953) là một thành tựu nổi bật của Tô Hoài. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công xuất sắc hình tượng nhân vật Mị, đặc biệt là đoạn cô bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra đến khi trốn khỏi Hồng Ngài.

Mị là một cô gái đẹp được sinh ra từ núi rừng Tây Bắc. Cô mang trong mình những nét tính cách của người con gái dân tộc thiểu số chất phác và hiền lành, chịu khó. Dù sinh ra trong một gia đình nghèo khó nhưng Mị vẫn rất lạc quan và yêu đời. Mị trông xinh tươi mơn mởn như một đóa hoa rừng ngập tràn xuân sắc. Cô không chỉ đẹp mà còn rất tài năng. Có tài thổi lá hay như thổi sáo nên biết bao người say mê hàng ngày đi theo bước chân của Mị. Những tưởng cuộc đời cô gái cứ thế trôi qua êm đềm và cô sẽ sớm tìm được bến đỗ yêu thương.

Nhưng xã hội phong kiến cùng với những hủ tục lạc hậu đã đẩy Mị tới bước đường cùng. Khi mà gia đình cô vì nghèo khó đã phải vay tiền nhà Thống lí Pá tra để mua một nương ngô làm kế sinh nhai nhưng làm hết năm này qua năm khác vẫn chưa trả hết nợ, đến chết vẫn chưa trả hết nợ.

Vào một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách mà cứ ngỡ là tiếng hò hẹn của người yêu, Mị bèn nhấc tấm vách gỗ thì bị A Sử bắt về làm vợ, làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Bao nhiêu mộng đẹp của lứa tuổi xuân thì mơn mởn bị chôn vùi.

Từ khi bắt đầu về làm dâu là Thống lí bao nhiêu mơ ước của cuộc đời tiêu tan bởi cô phải đối mặt với bi kịch của người phụ nữ làm dâu nhà giàu nhưng không có lấy một ngày nhàn hạ. Người ta thấy Mị lầm lũi trong xó cửa như một con rùa. Năm này qua năm khác chôn chân trong căn phòng nhỏ kín mít chỉ có một chiếc cửa sổ bé tý nhìn ra bên ngoài mờ ảo không biết là sương hay là khói.

Sở dĩ Mị an phận như thế là do bọn thống lý Pá Tra đã đưa vào đầu óc cô những tư tưởng mê tín dị đoan khá cay độc. Ở dân tộc H’mông thời trước có những hủ tục: người con gái khi bị “trình ma” thì coi như cuộc đời trở nên đen tối từ lúc ấy: nếu chẳng may chồng chết thì người ấy phải làm vợ người khác trong nhà, có khi là một người anh chồng già lụ khụ, có khi là một người em chồng còn ở tuổi trẻ con. Và nếu chồng lại chết, lại vẫn phải ở với người đàn ông khác trong nhà ấy! Do đó, Mị đã tin một cách tuyệt đối: ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi.

Mị đã từ một cô gái trẻ trung yêu đời phơi phới để trở thành một người đàn bà cam chịu. Quanh năm suốt tháng phải làm việc quần quật. Thậm chí “Con ngựa, con trâu làm có có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả đêm lẫn ngày”. Nghĩa là cuộc sống của Mị lúc này còn cực khổ hơn cả trâu ngựa trong nhà Thống Lí.

Thế nhưng, Mị là một cô gái có sức sống tiềm tàng, một khao khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt. Không có sự bạo tàn nào vùi dập, trói buộc nổi, nhất là khi được ngoại cảnh tác động. Khi mùa xuân tràn về các làng Mèo, trai gái tụ tập bên nhau nô đùa, nhảy múa, thổi sáo gọi bạn tình, Mị đã sống lại những chuỗi ngày tự do. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta chưa có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”

Ngồi trong căn phòng tăm tối, Mị lén uống rượu uống ừng ực từng bát mà bên tai vẫn văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng. Dù chẳng năm nào A Sử cho cô đi chơi tết, nhưng cô rất khao khát được đi như bao cô gái khác cùng trang lứa.

Hành động của Mị tới chỗ góc nhà lấy ống mỡ, xoắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng, chứng tỏ cô không cam chịu bóng tối ngột ngạt, u ám của kiếp nô lệ phong kiến. Trong phút giây, Mị đã quên đi cảnh ngộ thực tại để hành động theo tiếng gọi giục giã, tha thiết, rạo rực, cháy bỏng từ trái tim khát khao hạnh phúc, tình yêu của bản thân mình, Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách chuẩn bị đi chơi

Vậy mà nghiệt ngã thay, khi Mị toan bước đi thì bị A Sử kéo lại, chẳng nói chẳng rằng liền trói Mị vào cột nhà. Và bây giờ Mị khóc, khóc cho cái oan trái của một kiếp người khao khát muốn sống, muốn yêu mà lại bị ghì chặt vào một cuộc sống “không bằng con ngựa”. Men rượu làm cho Mị say, Mị mơ màng giữa ý thức và thực tại cho nên cô định “vùng bước đi. Nhưng chân tay đau không cựa được. Mị không còn nghe thấy tiếng sáo nữa”…

Xem thêm:  Học PowerPoint – Bài 8: Cách dùng Find & Replace - TRẦN HƯNG

Chính thực tại đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Khi phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông, ta nhận thấy rằng chính kết cục ấy đã nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát thì nhân vật không thể tự giải thoát cho mình, đồng thời nó cũng bắt đầu khơi dậy cho những cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật.

Sức sống mãnh liệt của Mị lại được trỗi dậy khi gặp A Phủ. Hình ảnh A Phủ bị trói đứng một lần nữa lại đánh thức nơi Mị nỗi tủi nhục của thân phận “không bằng con ngựa” của mình đồng thời khơi dậy lòng trắc ẩn tiềm tàng trong cô.

A Phủ là một chàng trai tràn trề sinh lực, lao động giỏi, con nhà nghèo, bố mẹ chết sớm, lưu lạc đến Hồng Ngài làm thuê, do cùng bọn con trai làng sinh sự đánh nhau với A Sử vào dịp chơi tết. A Phủ bị “bắt sống, trói gô chân tay lại” khiêng về nhà Thống lý. Từ đó, anh phải đi ở trừ nợ cho nhà Pá Tra. Trong một lần chăn bò, chẳng may hổ ăn thịt mất một con bò, Pá Tra đẩy A Phủ vào cột, hai tay bắt ôm quặt lên. Rồi dây mây quấn từ chân lên vai, sang hôm sau Pá Tra quẳng thêm một vòng thòng lọng vào cổ. Thế là A Phủ không cúi, không còn lúc lắc được nữa”.

Nhìn cảnh ngộ A Phủ lúc đầu, Mị hãy còn thái độ thản nhiên, sau đó, trông thấy thứ ngôn ngữ câm lặng phát ra từ dòng nước mắt của A Phủ, cô xúc động, thương cảm và đồng cảm với anh. Đồng thời, giọt nước mắt ấy như tiếng gọi thiêng liêng của tính giai cấp và ý thức phản kháng đối với Mị: Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng như thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được.

Trời ơi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cỡ chừng này là đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Vì thế, Mị liền hành động một cách táo bạo, “phiến loạn” quyết liệt. Cô cởi trói cho A Phủ rồi cùng anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài, chạy sang Phiềng Sa: Lúc ấy, trong cảnh nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng A Phủ đương biết có người bước lại. Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phì từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng: ”đi ngay…” rồi Mị nghẹn lại, A Phủ bỗng khụy xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy. Mị đứng lặng trong bóng tối.

Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm, nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy (…) và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. Hành động trên đây có xuất phát từ tấm lòng “thương người như thể thương thân”, từ sự thôi thúc cấp bách của cảnh ngộ hiện tại, từ tiếng gọi thiêng liêng, bất tử của cuộc sống độc lập – tự do.

Cô cởi trói cho A Phủ cũng là từ cởi trói xiềng xích đang đè nặng lên chính cuộc đời của mình. Cứu A Phủ không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.

Thật đáng biểu dương làm sao cho hình ảnh hai con người trẻ tuổi, nhựa sống mãnh liệt bị phong kiến trói đứng rồi vùng dậy một cách quyết liệt, bật tung như quả bom to đang ra sức tung phá giữa khu vực cần phải hủy diệt.

Đúng như một nhà nghiên cứu văn học đã nhận xét: Không ai trói buộc được sự sống, kìm hãm được sự sống cũng như không ai nỡ trách bông hạnh nở vươn ra ngoài tường khi sắc xuân đầy rẫy ngoài trời. Tóm lại, Mị là một hình tượng nhân vật phụ nữ có tính chất điển hình cho mảng truyện viết về đề tài miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến và thực dân đô hộ của nhà văn Tô Hoài nói riêng cũng như của dòng văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 nói chung.

Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn.

Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua nhân vật Mị nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ miền núi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Sức sống tiềm tàng ấy giúp nhà văn khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Việt Nam và chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Đây chính là cuộc đấu tranh đi lên từ tự phát đến tự giác theo ánh sáng của cách mạng. Đó là giá trị nhân văn ngời sáng của tác phẩm.

9. Cảm nhận về nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài

Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” được xem là một trong những bằng chứng tố cáo đanh thép tội ác của chế độ phong kiến cũ nát đè lên vai người phụ nữ nói chung và nhân vật Mị nói riêng. Hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm đã được Tô Hoài khắc họa rất thành công cả về hình thức lẫn tâm hồn.

Tô Hoài là một trong những nhà văn hiếm hoi trong làng văn học Việt Nam khắc họa thành công hình ảnh người phụ nữ. Hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm của ông không chỉ có vẻ đẹp về mặt hình thức mà nội tâm nhân vật cũng rất sâu sắc. Ta có thể nhận thấy điều này thông qua hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.

Qua miêu tả của Tô Hoài thì Mị là một cô gái sinh ra từ núi rừng Tây Bắc. Cô mang trong mình những nét tính cách của người con gái dân tộc thiểu số chất phác và hiền lành. Dù sinh ra trong một gia đình nghèo khó nhưng Mị vẫn rất lạc quan và yêu đời. Mị trông xinh tươi mơn mởn như một đóa hoa rừng ngập tràn xuân sắc. Cô không chỉ đẹp mà còn rất tài năng. Có tài thổi lá hay như thổi sáo nên biết bao người say mê hàng ngày đi theo bước chân của Mị. Những tưởng cuộc đời cô gái cứ thế trôi qua êm đềm và cô sẽ sớm tìm được bến đỗ yêu thương.

Nhưng xã hội phong kiến cùng với những hủ tục lạc hậu đã đẩy Mị tới bước đường cùng. Khi mà gia đình cô vì nghèo khó đã phải vay tiền nhà Thống lí Pá tra để mua một nương ngô làm kế sinh nhai nhưng làm hết năm này qua năm khác vẫn chưa trả hết nợ. Cực chẳng đã bố mẹ phải gán Mị cho nhà Thống lí để trả hết nợ.

Từ khi bắt đầu về làm dâu là Thống lí bao nhiêu mơ ước của cuộc đời tiêu tan cô phải đối mặt với bi kịch của người phụ nữ làm dâu nhà giàu nhưng không có lấy một ngày nhàn hạ. Người ta thấy Mị lầm lũi trong xó cửa như một con rùa. Năm này qua năm khác chôn chân trong căn phòng nhỏ kín mít chỉ có một chiếc cửa sổ bé tý nhìn ra bên ngoài mờ ảo không biết là sương hay là khói. Mị đã từ một cô gái trẻ trung yêu đời phơi phới để trở thành một người đàn bà cam chịu. Quanh năm suốt tháng phải làm việc quần quật. Thậm chí “Con ngựa, con trâu làm có có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả đêm lẫn ngày”. Nghĩa là cuộc sống của Mị lúc này còn cực khổ hơn cả trâu ngựa trong nhà Thống Lí. Và từ khi cha chết thì mị cũng không còn buồn.

Tưởng rằng Mị cứ sống lầm lũi đợi ngày chết rũ xương ở đây thôi. Nhưng không đã trong tiềm thức của Mị lòng ham sống, khát vọng tự do, hạnh phúc vẫn âm ỉ cháy và chỉ cần có chất xúc tác là bùng lên một cách mãnh liệt. Còn nhớ trong những ngày đầu Mị bị bắt về làm dâu nhà Thống Lí cô đã năm lần bảy lượt tìm cách trốn đi và ăn lá ngón để tự tử. Nhưng với lòng hiếu thảo dành cho cha Mị đã không đành lòng làm việc đó mà chấp nhận sống một cuộc sống lầm lũi sống mà như đã chết.

Nhưng Mị phải đâu đã an phận chấp nhận cuộc sống đầy đen tối mà gặp cơ hội thuận lợi là lòng ham sống lại được thắp lên. Khi “đêm tình mùa xuân” đến Mị lại muốn được mặc váy đẹp, lại muốn đi theo tiếng sáo gọi bạn. Mị chuẩn bị sửa soạn quần áo, chải đầu tóc để đi hội. Trong đầu Mị hiện lên suy nghĩ Mị muốn được đi chơi. Để rồi khi Mị vẫn đang thả hồn với mùa xuân thì Mị đã bị A Sử trói vào cột nhà. Lúc ấy tuy đau đớn nhưng Mị vẫn đang thả hồn mình theo những đám chơi xuân nên không còn cảm nhận được nỗi đau nữa. Có thể nói đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm hội mùa xuân là đoạn văn hay và xúc động nhất trong tác phẩm. Nó đã thể hiện được diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị với thủ pháp tương phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa nội tâm đầy màu sắc và thực tại cay đắng. Khiến cho nhân vật Mị được hiện lên rõ nét hơn trong mắt người đọc.

Sức sống mãnh liệt của Mị lại được trỗi dậy khi gặp A Phủ. Chính hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ khi bị trói trước sân đã thức tỉnh Mị một lần nữa vùng lên chống lại áp bức bất công. Mị lại trở về là Mị ngày trước với niềm ham sống mãnh liệt khát khao được làm chủ cuộc sống của mình. Mị và A Phủ đã cùng dắt tay nhau đến với vùng đất của tự do.

Thông qua hình tượng nhân vật Mị, Tô Hoài đã khắc họa rất thành công hình ảnh người phụ nữ vùng cao. Hiền lành, chất phác, yêu lao động và đặc biệt cũng rất mạnh mẽ biết vùng lên chống lại ách áp bức bóc lột tìm lại cuộc sống tự do của chính mình.

10. Cảm nhận về nhân vật Mị

Tô Hoài là một trong những nhà văn hiếm hoi trong làng văn học Việt Nam khắc họa thành công hình ảnh người phụ nữ. Hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm của ông không chỉ có vẻ đẹp về mặt hình thức mà nội tâm nhân vật cũng rất sâu sắc. Ta có thể nhận thấy điều này thông qua hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.

Qua miêu tả của Tô Hoài thì Mị là một cô gái sinh ra từ núi rừng Tây Bắc. Cô mang trong mình những nét tính cách của người con gái dân tộc thiểu số chất phác và hiền lành. Dù sinh ra trong một gia đình nghèo khó nhưng Mị vẫn rất lạc quan và yêu đời. Mị trông xinh tươi mơn mởn như một đóa hoa rừng ngập tràn xuân sắc. Cô không chỉ đẹp mà còn rất tài năng. Có tài thổi lá hay như thổi sáo nên biết bao người say mê hàng ngày đi theo bước chân của Mị. Những tưởng cuộc đời cô gái cứ thế trôi qua êm đềm và cô sẽ sớm tìm được bến đỗ yêu thương.

Nhưng xã hội phong kiến cùng với những hủ tục lạc hậu đã đẩy Mị tới bước đường cùng. Khi mà gia đình cô vì nghèo khó đã phải vay tiền nhà Thống lí Pá tra để mua một nương ngô làm kế sinh nhai nhưng làm hết năm này qua năm khác vẫn chưa trả hết nợ. Cực chẳng đã bố mẹ phải gán Mị cho nhà Thống lí để trả hết nợ.

Từ khi bắt đầu về làm dâu là Thống lí bao nhiêu mơ ước của cuộc đời tiêu tan cô phải đối mặt với bi kịch của người phụ nữ làm dâu nhà giàu nhưng không có lấy một ngày nhàn hạ. Người ta thấy Mị lầm lũi trong xó cửa như một con rùa. Năm này qua năm khác chôn chân trong căn phòng nhỏ kín mít chỉ có một chiếc cửa sổ bé tý nhìn ra bên ngoài mờ ảo không biết là sương hay là khói. Mị đã từ một cô gái trẻ trung yêu đời phơi phới để trở thành một người đàn bà cam chịu. Quanh năm suốt tháng phải làm việc quần quật. Thậm chí “Con ngựa, con trâu làm có có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả đêm lẫn ngày”. Nghĩa là cuộc sống của Mị lúc này còn cực khổ hơn cả trâu ngựa trong nhà Thống Lí. Và từ khi cha chết thì mị cũng không còn buồn.

Tưởng rằng Mị cứ sống lầm lũi đợi ngày chết rũ xương ở đây thôi. Nhưng không đã trong tiềm thức của Mị lòng ham sống, khát vọng tự do, hạnh phúc vẫn âm ỉ cháy và chỉ cần có chất xúc tác là bùng lên một cách mãnh liệt. Còn nhớ trong những ngày đầu Mị bị bắt về làm dâu nhà Thống Lí cô đã năm lần bảy lượt tìm cách trốn đi và ăn lá ngón để tự tử. Nhưng với lòng hiếu thảo dành cho cha Mị đã không đành lòng làm việc đó mà chấp nhận sống một cuộc sống lầm lũi sống mà như đã chết.

Nhưng Mị phải đâu đã an phận chấp nhận cuộc sống đầy đen tối mà gặp cơ hội thuận lợi là lòng ham sống lại được thắp lên. Khi “đêm tình mùa xuân” đến Mị lại muốn được mặc váy đẹp, lại muốn đi theo tiếng sáo gọi bạn. Mị chuẩn bị sửa soạn quần áo, chải đầu tóc để đi hội. Trong đầu Mị hiện lên suy nghĩ Mị muốn được đi chơi. Để rồi khi Mị vẫn đang thả hồn với mùa xuân thì Mị đã bị A Sử trói vào cột nhà. Lúc ấy tuy đau đớn nhưng Mị vẫn đang thả hồn mình theo những đám chơi xuân nên không còn cảm nhận được nỗi đau nữa. Có thể nói đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm hội mùa xuân là đoạn văn hay và xúc động nhất trong tác phẩm. Nó đã thể hiện được diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị với thủ pháp tương phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa nội tâm đầy màu sắc và thực tại cay đắng. Khiến cho nhân vật Mị được hiện lên rõ nét hơn trong mắt người đọc.

Sức sống mãnh liệt của Mị lại được trỗi dậy khi gặp A Phủ. Chính hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ khi bị trói trước sân đã thức tỉnh Mị một lần nữa vùng lên chống lại áp bức bất công. Mị lại trở về là Mị ngày trước với niềm ham sống mãnh liệt khát khao được làm chủ cuộc sống của mình. Mị và A Phủ đã cùng dắt tay nhau đến với vùng đất của tự do.

Thông qua hình tượng nhân vật Mị, Tô Hoài đã khắc họa rất thành công hình ảnh người phụ nữ vùng cao. Hiền lành, chất phác, yêu lao động và đặc biệt cũng rất mạnh mẽ biết vùng lên chống lại ách áp bức bóc lột tìm lại cuộc sống tự do của chính mình.

Trên đây là các bài Cảm nhận về nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ. Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.

  • Top 11 bài phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ hay chọn lọc
  • Top 8 mẫu phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị cực hay
Rate this post

KevinNguyen

Kevin Nguyễn - Người quản trị nội dung web là một chuyên gia sáng tạo và chuyên nghiệp trong việc quản lý, phát triển và duy trì nội dung website. Với khả năng phân tích và đánh giá thông tin chính xác, anh/chị đảm bảo cung cấp thông tin hữu ích và đáng tin cậy cho cộng đồng.