Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là Thiên cổ hùng văn. Hãy phân

Chào mừng bạn đến với pgdgiolinhqt.edu.vn trong bài viết về Dinh tren va phan tich tac pham de lam sang ro nhan dinh do chúng tôi sẽ chia sẻ kinh nghiệm chuyên sâu của mình cung cấp kiến thức chuyên sâu dành cho bạn.

Nhắc đến những bản tuyên ngôn độc lập đầy hào hùng của dân tộc, chúng ta không thể không nhắc đến Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Tác phẩm không chỉ được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc mà còn là áng thiên cổ hùng văn vô cùng đặc sắc, giàu giá trị trong nền văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng.

Trước hết, ta cần hiểu “thiên cổ hùng văn” là những bài văn cổ mang âm điệu hùng tráng, hào hùng có nội dung viết về những vấn đề lớn trong lịch sử dân tộc đã được lưu truyền từ ngàn đời nay. Nói Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn bởi nội dung bài cáo là bản tổng kết, bố cáo thiên hạ về chiến thắng của vua tôi nhà Lê trước giặc Minh tàn ác, lời khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc Việt Nam và ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền của quân dân ta trước kẻ thù xâm lăng. Không chỉ vậy, Đại cáo bình Ngô là áng văn được kết tinh dưới ngòi bút chính luận trữ tình của Nguyễn Trãi với lời văn biền ngẫu cùng sự thay đổi giọng điệu linh hoạt, các biện pháp tu từ nghệ thuật và hệ thống từ ngữ được chọn lọc vô cùng nhuần nhuyễn,… đã tạo nên vẻ trầm hùng trong cách thể hiện của bài cáo.

Thật vậy, bài Bình Ngô đại cáo chính là bài văn tổng kết lại một cách ngắn gọn nhất cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do chủ tướng Lê Lợi lãnh đạo, xuyên suốt tác phẩm là niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc. Đầu tiên, Bình Ngô đại cáo đã khẳng định nhân nghĩa chính là lí tưởng xuyên suốt cuộc khởi nghĩa và lời khẳng định Việt Nam là dân tộc có nền văn hiến lâu đời:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dânQuân điếu phạt trước lo trừ bạoNhư nước Đại Việt ta từ trướcVốn xưng nền văn hiến đã lâuNúi sông bờ cõi đã chiaPhong tục Bắc Nam cũng khácTừ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lậpCùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phươngTuy mạnh yếu có lúc khác nhauSong hào kiệt thời nào cũng có.

Mỗi câu thơ vang lên đều ẩn chứa trong đó niềm tự hào, lời khẳng định chắc nịch về tư tưởng nhân nghĩa gắn với việc yên dân trừ bạo. Bên cạnh việc khẳng định nhân nghĩa chính là mang lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân, vì nhân dân, tác giả còn khẳng định các yếu tố xác định chủ quyền dân tộc: Nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, triều đại riêng và “hào kiệt đời nào cũng có”. Nguyễn Trãi còn đặt Đại Việt trong thế đối sánh ngang hàng với các quốc gia phong kiến lớn ở phương Bắc. Điều này cũng đã thể hiện sự tự ý thức về tồn tại độc lập, chủ quyền của dân tộc vừa thể hiện niềm tự hào đối với truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của nhân dân.

Xem thêm:  Kể về một hoạt động em tham gia cùng các bạn (28 mẫu)

Tiếp sau những lời văn chứa chan niềm xúc động, tự hào trước trang lịch sử vẻ vang của dân tộc là lời tố cáo đầy đanh thép của tác giả trước tội ác của giặc Minh:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,Gây binh kết oán trải hai mươi năm.Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.Nặng nề những núi phu phen,Tan tác cả nghề canh cửi.Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Tất cả những tội ác man rợ nhất của kẻ thù được Nguyễn Trãi gây ra đối với nhân dân ta, những hình ảnh “nướng dân đen, vùi con đỏ, gây binh kết oán…” đã cho thấy sự tàn ác của chúng nhằm hủy diệt đồng bào ta. Chúng không chỉ độc ác khi tra tấn về mặt thể xác, chém giết tàn sát dân ta một cách không thương tiếc mà chúng còn tham lam vô độ, ra sức cướp phá, vơ vét tài nguyên thiên nhiên của nước ta, đặt ra cho chúng ta những loại thuế khóa vô cùng nặng nề. Những tội ác của giặc Minh nhiều không kể xiết và gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng đến kinh tế “tan tác cả nghề canh cửi”, môi trường tự nhiên “bắt chim trả”, “bẫy hươu đen”, “tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”, cuộc sống nhân dân thê thảm “nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng”… Bằng cách sử dụng hình ảnh “trúc Nam Sơn”, “nước Đông Hải” là những sự vật tự nhiên vô cùng, vô tận, tác giả đã khẳng định tội ác của lũ giặc cướp nước và bán nước là không thể kể xiết khiến cho trời đất không thể dung tha, thần nhân không thể chịu được. Đó cũng chính là lí do khiến chúng ta phải cầm vũ khí, đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược.

Và diễn tiến quá trình cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cũng được Nguyễn Trãi thuật lại một cách đầy ngắn gọn qua những câu văn biền ngẫu dài ngắn khác nhau:

Núi Lam sơn dấy nghĩaChốn hoang dã nương mìnhNgẫm thù lớn há đội trời chungCăm giặc nước thề không cùng sốngĐau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trờiNếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.Những trằn trọc trong cơn mộng mị,Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồiVừa khi cờ nghĩa dấy lên,Chính lúc quân thù đang mạnh

Xem thêm:  Tập làm văn lớp 4: Tả cây nho (Dàn ý + 8 mẫu) Tả giàn nho lớp 4

Lời xưng “Ta đây” là lời nhân danh của chủ tướng Lê Lợi khiến cho bài cáo như một lời tự bộc bạch hết sức chân thành của vị tướng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn về những ngày đầu cuộc khởi nghĩa, với những trằn trọc, lo lắng trước vận nước đang ở thế ngàn cân treo sợi tóc, đau đớn trước cảnh giặc Minh hoành hành ngang ngược đang từng ngày tàn sát dân ta dã man, nỗi giận cứ thế dâng lên ngút trời,… Qua đây, ta cũng thấy được tấm lòng yêu nước thương dân, tâm tư, nỗi lòng sâu kín của Lê Lợi – linh hồn của cuộc chiến giành độc lập tự do cho nhân dân. Và cũng qua những dòng văn của Nguyễn Trãi, tất cả những gian khổ, thiếu thốn ban đầu của cuộc chiến cứ dần hiện rõ trước mắt người đọc:

Lại ngặt vì:Tuấn kiệt như sao buổi sớm,Nhân tài như lá mùa thu,Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Sự đối lập giữa một bên là sự lớn mạnh của giặc với một bên là lực lượng yếu mỏng của ta khi tuấn kiệt ít ỏi “như sao buổi sớm”, nhân tài thiếu thốn như “lá mùa thu”; có khi thiếu thốn về lương thực, có khi lại bị bao vây,… tất cả những điều này đã cho thấy sự khó khăn, khổ cực của nhân dân ta trong những ngày đầu đánh giặc. Ấy vậy nhưng, vượt lên trên tất cả:

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,Lúc Khôi Huyện quân không một đội.Trời thử lòng trao cho mệnh lớnTa gắng trí khắc phục gian nan.Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phớiTướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Với sự đồng lòng của tướng lĩnh, nhân dân và ý chí quật cường, chiến lược đúng đắn cùng cự chỉ huy tài tình của vị tướng Lê Lợi, chúng ta vẫn vượt lên mọi khó khăn, dần xây dựng lực lượng vững mạnh làm nên những chiến thắng lịch sử, khiến cho giặc Minh phải sợ hãi. Trong bài cáo này, tác giả Nguyễn Trãi chỉ tập trung tường thuật lại ngắn gọn, súc tích một số trận chiến tiêu biểu trong những giai đoạn nhất định:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,Lấy chí nhân để thay cường bạo.Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.Sĩ khí đã hăngQuân thanh càng mạnh.Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặmTốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.(…)

Xem thêm:  Đề 1: Dân tộc ta có truyền thống Tôn sư trọng đạo. Theo anh (chị

Tất cả những địa danh, không khí trận chiến vô cùng ác liệt đã được Nguyễn Trãi nhắc lại một cách vô cùng ấn tượng. Bằng cách nói cường điệu, phóng đại, tác giả đã cho thấy sự thất bại nhục nhã ê chề của giặc và không khí thắng trận của ta qua hai trận chiến Ninh Kiều và Tốt Động. Dấu ấn của trận đánh Chi Lăng – Xương Giang cũng được tác giả dồn hết tâm huyết, tài năng để tường thuật cho người đọc:

Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lạiNăm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phongSau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thựcNgày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thếNgày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầuNgày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vongNgày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.

Quân giặc hung hãn cử hai tướng giặc giỏi nhất chỉ huy nhằm tạo thế gọng kìm, đè bẹp quân dân ta, vậy nhưng do có sự phòng bị, bày binh bố trận hợp lí, ta đã phá tan kế hoạch của chúng để giành thế chủ động, thừa thắng xông lên. Rồi sau đó là một loạt các chiến thắng khác được Nguyễn Trãi kể ra với giọng điệu vô cùng hăm hở, vui mừng, tự hào trước sự chiến đấu anh dũng của quân dân ta.

Đọc những câu văn miêu tả cảnh chiến trận, ta cũng như mường tượng ra được khung cảnh lúc bấy giờ với sự đối lập, tương phản tương đối rõ ràng giữa một bên là khí thế áp đảo của ta với tâm thế tự tin của người chiến thắng dâng cao với một bên là sự hèn nhát, nhụ nhã, ê chề của kẻ thù:

Gươm mài đá, đá núi cũng mònVoi uống nước, nước sông phải cạn.Đánh một trận, sạch không kình ngạcĐánh hai trận tan tác chim muông.Cơn gió to trút sạch lá khô,Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đườngXương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nướcGhê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,

Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờNếu như với chiến thắng, hào khí của ta, tác giả sử dụng giọng điệu tự hào hùng tráng thì đối với quân giặc, ông đặc biệt sử dụng giọng điệu khinh bỉ, châm biếm. Và giọng văn cứ thế đan xen, thay đổi một cách linh hoạt để đến cuối cùng, khi kết thúc bài cáo, Nguyễn Trãi chuyển sang giọng văn hiền hòa, chậm rãi, khoan thai:

Xã tắc từ đây vững bềnGiang sơn từ đây đổi mới

Lời văn như chứa chan niềm vui mừng khôn xiết trước độc lập tự do của đất nước, là sự khẳng định nền độc lập chủ quyền đáng được hưởng của dân tộc Đại Việt đồng thời thể hiện niềm tin tưởng mãnh liệt trước sự thay da đổi thịt, sự lớn mạnh của đất nước.

Rate this post

KevinNguyen

Kevin Nguyễn - Người quản trị nội dung web là một chuyên gia sáng tạo và chuyên nghiệp trong việc quản lý, phát triển và duy trì nội dung website. Với khả năng phân tích và đánh giá thông tin chính xác, anh/chị đảm bảo cung cấp thông tin hữu ích và đáng tin cậy cho cộng đồng.